được nữa. Trời không cho thì chỉ uổng mất công ta mà thôi.
Tự bấy giờ Tả Ao không chịu làm ăn gì cả, chỉ lang thang đi làm đất cho người ta, một bữa đi xem xét đất đến làng Bút Sơn, huyện
Hoằng Hóa, thấy có một huyệt đất hay, bèn bảo người ta rằng: “Có ngôi đất, táng giờ Dần đến giờ Mão thì phát, nếu ai táng ngôi ấy
tất được của, hễ ai chịu nhường cho ta một phần chia mười, thì ta cho ngôi đất ấy.” Có một người xin táng, Tả Ao đặn đến sáng sớm
mai thì cất. Táng xong mặt trời mới mọc. Người ấy vác cuốc ra rửa chân ngoài sông, thấy có một người chết trôi, nhân thể có cuốc, mới
vớt lên chôn cho xác ấy, thấy trong bọc người chết có hai túi bạc, mở ra đếm thì được 50 nén, mới biết Tả Ao là tài.
Khi đến huyện Thanh Liêm lại tìm được một ngôi, bảo người ta rằng: “Đây có ngôi đất, chỉ táng trong một tháng thì phát quận công,
nếu ai cho ta 100 quan tiền, thì ta táng cho.” Có một ông nhà giầu xin táng. Bấy giờ chúa Trịnh đang đánh nhau với nhà Mạc. Tướng
nhà Mạc là Mạc Kinh Độ thua trận ở huyện Kim Bảng chạy chốn. Chúa Trịnh giao ai bắt được thì thưởng cho làm quận công một đời.
Ông nhà giầu ấy táng được 20 ngày rồi. Bỗng một hôm thấy có một người vào nhà bảo rằng: “Ta là Mạc Kinh Độ đây, cho ta đánh một
bữa chén, ta sẽ làm ơn mà cho đem nộp lấy thưởng.” Ông nhà giầu mừng rỡ, làm cơm thiết đãi. Mạc Kinh Độ ăn uống xong, cho trói mình
lại mà đem đến đồn Cầu Châu nộp cho chúa Trịnh. Chúa Trịnh lập tức thưởng cho làm quận công. Người ấy được thưởng tạ Tả Ao 100
quan tiền, Tả Ao chỉ lấy 3 quan để ăn đường, rồi đi chỗ khác.
Từ bấy giờ danh tiếng đồn khắp thiên hạ. Tả Ao đi chu du bốn phương, phàm 20 năm trời. Đi qua các huyện Gia Bình, Từ Liêm, Đông
Ngạo, Siêu Loại, Gia Lâm, táng cho nhà nào cũng được, lớn thì làm đến Tiến sĩ, Thượng thư; nhỏ cũng làm nên giầu hùng trưởng. Kể ra
nhiều lắm, không sao cho xiết.
Khi đi qua làng Thiên Mỗ, thấy có một ngôi đất to, muốn táng hộ cho nhà họ Trần. Vừa đặt tróc long xuống đất, tróc long đổ ba lượt.
Tả Ao niệm phù chú gọi Thổ thần lên hỏi, thì thổ thần nói rằng: “Đất này phát ba đời quốc sư đại vương, con cháu công hầu k hông bao
giờ hết. Trời đã để giành cho nhà Nguyễn Qui Đức; còn nhà họ Trần k ia ít hồng phúc, k hông k ham nổi được đất này; nếu ông làm
cưỡng của trời thì tất có vạ. Vả lại ông đi k hắp thiên hạ, làm phúc cho người ta đã nhiều, mà k hông được ngôi nào để táng cho cha
mẹ, ông nên nghĩ thế thì biết.” Vì thế, Tả Ao từ bấy giờ không dám khinh thường để mả cho ai nữa.
Tả Ao sinh được hai con giai, nhà thì nghèo mà làm đất không lấy tiền của ai, cho nên con cái thường không đủ bữa mà ăn. Khi đã già,
tìm sẵn một ngôi đất sinh phần cho mình, ở xứ đồng khoai, gọi là cách “Nhất k huyển trục quần dương” (Nghĩa là một con chó đuổi đàn
dê). Nếu táng được ngôi ấy, thì chỉ ba ngày thành địa tiên. Đến lúc phải bệnh, sai hai con khiêng mình ra đấy, toan phân kim lấy rồi nằm
xuống cho chôn; nhưng đến nửa đường thì đã gần chết, không kịp đến được chỗ kia, mới trỏ một cái gò bên cạnh đường, dặn con rằng:
“Chỗ k ia là ngôi huyết thực (nghĩa là được hưởng người ta cúng tế), bất đắc dĩ táng ngay ở đấy cũng xong.”
Nói xong thì mất, bấy giờ mới 65 tuổi. Hai con đem táng vào gò ấy, quả nhiên về sau làm phúc thần một làng.
Địa lý xưa nay ở nước Nam, không ai giỏi bằng ông Tả Ao, thế mà chỉ làm phúc cho người, đến mình thì không sao làm được, mà con
cái thì vẫn nghèo khổ. Thế mới biết rằng câu tục ngữ nói “Tiên tích phúc nhi hậu tầm long.”