27. Phùng Khắc Khoan
Khắc Khoan người làng Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây.
Tục truyền Khắc Khoan tức là anh em cùng mẹ khác cha với ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình). Nguyên bà ấy từ lúc bỏ ông Văn
Định, lên Sơn Tây lấy chồng khác, rồi sinh ra Khắc Khoan. Khắc Khoan sinh ra có tư chất thông minh. Khi mới lớn, bà mẹ cho xuống Hải
Dương theo học anh là Bỉnh Khiêm. Bỉnh Khiêm hết lòng dạy dỗ, mới thành ra một người kiêm đủ văn chương tài đức. Nhân khi bấy giờ
nhà Lê giữ ở Thanh Hóa, Bỉnh Khiêm biết cơ nhà Lê có hồi trung hưng được, xui Khắc Khoan vào trong đấy để giúp nhà Lê. Khắc Khoan
vào thì vua Trang Tôn nhà Lê mừng rỡ tin dùng lắm, bàn mưu lập mẹo, giúp lên được lắm việc to tát. Đến thời vua Thế Tôn nhà Lê khôi
phục được kinh thành Thăng Long, vua sai Khắc Khoan sang sứ nhà Minh để cầu phong tước. Nhà vua phong cho vua Thế Tôn làm An
nam Đô Hộ sứ.
Khắc Khoan trả lại sắc vua Tàu và dâng biểu nói rằng:
- Chúa tôi là họ Lê, nguyên là dòng dõi vua nước An nam tôi, không có tội gì như nhà Mạc, mà lại phải chịu chức tước như họ Mạc, thì
chúng tôi không dám nhận sắc mệnh, xin Hoàng đế thiên triều xét lại cho.
Vì thế vua nhà Minh lại phong cho vua Thế Tôn làm An Nam quốc vương.
Trong khi đi sứ, gặp ngày tết Nguyên đán, vua Tàu sai các đình thần và các sứ thần ngoại quốc, mỗi người phải dâng bài thơ chúc
mừng. Các người kia ai cũng dâng một bài, chỉ Khắc Khoan dâng lên 36 bài, mà bài nào cũng hay. Vua Tàu phê cho đỗ Trạng nguyên, bởi
thế mới gọi là trạng Bùng. (Bùng tức là làng Phùng Xá, tục gọi là Bùng).
Khi đi sứ trở về, qua tỉnh Lạng Sơn, gặp khi bà chúa Liễu hiện hình chơi trên đỉnh núi. Đôi bên đối đáp với nhau một hồi, rồi bà chúa
Liễu biến mất. Khắc Khoan lại trông thấy gỗ ngổn ngang dọc đường, nhận ra chữ “Liễu Hạnh” và chữ “Phùng”, biết là ý bà chúa Liễu
muốn nhờ Khắc Khoan đứng lên khởi công lập đền thờ bà ấy.
Về sau, nhân lúc thong thả, Khắc Khoan đem hai người là Ngô, Lý đi chơi hồ Tây, lại gặp bà chúa Liễu phen nữa, có làm thơ xướng họa
liên ngâm.
Khắc Khoan làm quan đời trung hưng, công nghiệp rất là hiển hách. Dần dần làm đến Thái phó, được phong làm quốc công, ngoài 70
tuổi mới mất.