Kì lân, mới có thai mà sinh ra Lê Quí Đôn.
Quí Đôn thông minh khác thường, mới lên hai tuổi đã biết được hai chữ “hữu, vô.” Thử một trăm lượt cũng cứ trỏ vào chữ ấy. Lên 5
tuổi, cho học Kinh thi, thì học đâu nhớ đến đấy, không chữ gì phải bảo đến hai lượt. Lên sáu tuổi đã biết làm thơ, làm văn.
Khi 7, 8 tuổi cởi truồng đi tắm, có một quan Thượng vào chơi với ông Trung hiếu công. Trông thấy đứa trẻ, hỏi thăm vào nhà ông kia,
đứa trẻ ấy đứng giang hai chân ra và bảo quan Thượng rằng:
- Tôi đố ông biết chữ gì đây, hễ ông biết được thì tôi sẽ đưa ông vào nhà.
Ông kia thấy đứa trẻ con hỗn sược, không thèm nói gì. Đứa ấy cười ầm lên nói rằng:
- Chữ thái (
太
) thế mà không biết!
Ông Thượng thấy đứa kỳ dị, hỏi ra mới biết là con ông Trung hiếu công. Lúc vào chơi nhà gọi lên mắng rằng:
- Mày là thằng rắn đầu rắn cổ, phải làm một bài thơ tự trách mình, nếu không làm được thì phải đòn.
Quí Đôn vâng lời làm một bài thơ nôm rằng:
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà,
Rắn mà chẳng học chẳng ai tha.
Thẹn đèn, hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét, mai gầm rát cổ cha.
Chém mép chỉ quen tuồng nói dối,
Lằn lưng cam chịu tiếng roi tra.
Từ rầy Châu, Lỗ chăm nghề học,
Chớ để người ta tiếng thế gia.
Ông kia thấy bé một tí tuổi, mà văn chương tài hoa, nức nở khen mãi không thôi. Lại một khi, Quí Đôn đến chơi nhà lý trưởng, nhác
trông thấy một quyển sổ, biên những người thiếu thuế má, kẻ thì một vài quan tiền, người thì năm bảy đấu thóc. Quí Đôn xem qua một
lượt, rồi trả người lý trưởng. Đến sau nhà ấy bị cháy, mất cả quyển sổ, các món nợ kẻ thiếu người đủ, không biết tra khảo vào đâu. Khi
gặp Quí Đôn phàn nàn về sự mất quyển sổ.
Quí Đôn bảo rằng:
- Quyển sổ ấy tôi đã nhớ cả rồi, để tôi đọc cho mà sao lại, can gì mà lo.
Quí Đôn đọc thì không sai lẫn một ly nào, nhưng người lý trưởng vẫn chưa dám quyết. Đến lúc chiếu sổ ra thu các món, thì phải cả,
không ai cãi cọ gì, mới biết là Quí Đôn sáng dạ.