- “Đố cả nước Nam biết là chữ gì, nếu k hông ai biết thì k hông sang sứ nữa.”
Vua và chúa hội cả quần thần lại hỏi, thì không ai biết là chữ gì. Vua và chúa lấy làm lo lắm. Các quan nói với chúa rằng:
- Việc này phải hỏi đến Lê Quí Đôn mới xong. Xin chúa phục chức cho Lê Quí Đôn, rồi triệu đến mà hỏi.
Chúa Trịnh bất đắc dĩ, phải trả lại hết chức tước của Lê Quí Đôn, rồi cho đòi vào triều đình hỏi chữ ấy.
Lê Quí Đôn trước còn từ tạ không biết, chúa lại trả khoa mục cho con và người học trò. Lê Quí Đôn mới giải nghĩa chữ ấy và viết bốn
chữ: “Phỉ xa bất đông” (
匪車不東
) vào tấm vóc sai người đưa lên cho sứ Tàu.
Vua và chúa bây giờ mới nghĩ ra nó đố mẹo; chữ viết không ra hình chữ xa (
車
) mà cũng chẳng ra chữ đông (
東
). Mà kinh thi có sẵn
câu rằng: “Phỉ xa bất đông.” Đó là đố một câu, nhưng chỉ viết một chữ mà đủ ý cả 4 chữ.
Sứ Tàu thấy nói trúng vào ý mình mới sang sứ, đó là mẹo nó cứu cho Quí Đôn đấy.
Tính ông Quí Đôn trung tín thành thực, làm quan được bổng lộc, thường chia cho những người họ hàng thân thích. Dựng vợ gả chồng
cho người trong họ, trước sau cả thẩy 18 người. Những vợ con anh em bạn nghèo khó, cũng thường tư cấp cho ít nhiều. Mà xử vào trong
mình rất tiết kiệm, thường chỉ mặc cái áo vải ăn cơm rau mà thôi. Lại hay xem sách, đã làm đến khanh tướng, cũng vẫn học đến nửa đêm
mới thôi. Xử với người ta thì cực nhũn, không có kiêu ngạo với ai bao giờ.
Đến khi trí sĩ làm một cái nhà gianh, sửa sang vườn cảnh chơi bời, cửa đề hai chữ: “cẩn trai” để tỏ ý mình. Học trò nhiều người làm nên
đến khanh tướng.
Một tay Quí Đôn làm ra nhiều pho sách quí lắm, như là: Thánh mô hiền phạm lục, Kim k ính lục chú, Hoàng việt văn hải, Vân đài loại
ngữ, Kiến văn tiểu lục, Thái Ất quái vận, Lục nhâm hội thông, Kim cương k inh chú giải, vân vân.