3. Đinh Tiên Hoàng
Tiên Hoàng họ Đinh tên là Hoàn, người ở đổng Hoa Lư, phủ Đại Hoàng (bây giờ là phủ An Khánh, tỉnh Ninh Bình), nguyên là con
quan nha tướng của Dương Đình Nghệ tên là Đinh Công Trứ.
Tục truyền ở đổng Hoa Lư xưa có con rái cá cực to, vợ ông Công Trứ một hôm tắm ở dưới suối, bị con rái cá hiếp, về mới có mang. Khi
con rái cá bị người ta bắt được ăn thịt, quẳng xương ra đường cái, thì bà ấy nhặt về mà gác lên gác bếp.
Về sau, ông Công Trứ mất rồi, bà ấy mới sinh ra Đinh Tiên Hoàng, Tiên Hoàng lớn lên, thông minh nhanh nhẹn, mà tài nghề lội nước.
Nhà nghèo, phải nương nhờ ở với chú. Bấy giờ có một thầy địa lý Tàu sang nước ta xem đất, đi từ Hưng, Tuyên theo long mạch đến mãi
phủ Đại Hoàng, trông xuống dòng sông thấy nước sâu thăm thẳm mà xoáy mạnh lắm, đồ là ở đấy tất có huyệt đế vương. Mới gọi trẻ thuê
tiền cho thử lặn xuống chỗ ấy xem làm sao. Tiên Hoàng vốn tài lặn, mới nhận lời lặn xuống thì sờ thấy có con ngựa bằng đá đứng ở dưới
đáy sông, mới lên bờ bảo với người khách, người khách đưa cho nắm cỏ, bảo thử xuống dử vào mồm ngựa xem ra làm sao, ngài cầm nắm
cỏ xuống dử thì con ngựa há miệng ra đớp ngay.
Ngài lại lên nói chuyện với người khách, người khách lấy tiền thưởng cho ngài rồi đi. Ngài vốn thông minh, biết ngay chỗ ấy hẳn là đại
huyệt, rồi về nói chuyện với mẹ. Xem mả cha ở đâu, để đem táng vào huyệt ấy. Bà mẹ trỏ lên gác bếp, rồi lấy nắm xương đưa cho ngài,
ngài đem ra, lặn lại xuống chỗ vực sâu ấy, cũng lấy cỏ bọc nắm xương dử vào mồm ngựa thì con ngựa cũng đớp và nuốt đi.
Từ đấy ngài sinh ra bạo tợn, các trẻ chăn trâu bò đều sợ, bầu ngài lên làm tướng, bẻ hoa lau làm cờ, chặt tre làm khí giới, đi đánh nhau
với trẻ làng khác. Đi đến đâu, các trẻ phải sợ hãi kinh phục. Một bữa, hội hết trẻ các làng ở ngoài đồng, nhân có con bò của chú cho đi
chăn, mổ ngay ra làm cỗ để khao các chúng. Chú ở nhà nghe tin, vác gậy ra đồng xem làm sao, thì thấy chúng đã ăn tiệc xong rồi. Chú tức
giận lắm, vác gậy đuổi đánh, ngài sợ hãi, chạy đã bí đường, phải nhảy choàng xuống sông, bỗng dưng có con rồng vàng ở dưới sông
hiện ra đội ngài lên, người chú thấy vậy kinh hoảng, vội vàng bỏ gậy mà lạy phục xuống đất.
Từ bấy giờ danh tiếng ngài lừng lẫy, các hào kiệt trong nước để lòng trông mong về ngài. Nhân bấy giờ cuối đời Nam Tấn, nước Nam
có 12 ông sứ quân nổi lên, mỗi người chiếm giữ một phương, như là:
1. Ngô Xương Xí giữ ở Bình Kiều.
2. Kiểu Công Hãn giữ ở Phong Châu (nay là Bạch Hạc, Vĩnh Yên), tự xưng là Tam Chế.
3. Nguyễn Khoan giữ phủ Tam Đái, (nay là phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Yên) tự xưng là Thái Bình Công.
4. Ngô Nhật Khánh giữ châu Đường Lâm (nay là làng Cam Lâm, huyện Phú Thọ, Sơn Tây) tự xưng là Anh Hiền Công.
5. Đỗ Cảnh Thạc giữ ở Tương Giang (tức là Đỗ Động Giang nay thuộc Thanh Oai, Hà Đông).
6. Lý Khuê giữ ở Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh).