Trọng Ni viết:
Khưu dã thường sứ ư Sở hĩ, thích kiến đồn tử thực ư kỳ tử mẫu giả; thiểu
yên, tuần nhược giai khí chi nhi tẩu; bất kiến kỳ yên nhĩ, bất đắc loạn yên
nhĩ! Sở ái kỳ mẫu giả, phi ái kỳ hình dã, ái sử kỳ hình giả dã. Chiến nhi tử
giả, kỳ nhân chi táng dã, bất dĩ sáp tư, tắc giả chi lũ, vô vi ái chi, giai vô kỳ
bản hĩ. Kim Ai Đài Đà vị ngôn nhi tín, vô công nhi thân, sử nhân thụ kỷ
quốc, duy khủng kỳ bất thụ dã, thị tất tài toàn nhi đức bất hình giả dã.
Ai Công viết: Hà vị tài toàn?
Trọng Ni viết: Tử sinh, tồn vong, cùng đạt, bần phú, hiền dữ bất tiếu, hủy
dự, cơ khát hàn thử: thị sự chi biến, mạng chi hành dã. Nhật dạ tương đại
hồ tiền, nhi tri bất năng quy hồ kỳ thủy giả dã; cố bất túc dĩ hoạt hòa, bất
khả nhập ư linh phủ sử chi hòa dự, thông nhi bất thất ư duyệt; sử nhật dạ vô
khước nhi dữ vật giai xuân thị tiếp nhi sinh thời ư tâm giả dã, thị chi vị tài
tòan.
Hà vị đức bất hình?
Viết: "Bình giả thủy đình chi thịnh dã kỳ khả dĩ vi pháp dã, nội bão chi nhi
ngoại bất đãng dã. Đức giả thành hòa chi tu dã, đức bất hình giả, vật bất
năng ly dã."
Ai Công dị nhật dĩ cáo Mẫn tử viết:
"Thủy dã ngô dĩ nam diện nhi quân thiên hạ, chấp dân chi kỷ, nhi ưu kỳ tử,
ngô tự dĩ vi chí thông hĩ. Kim ngô văn chí nhân chi ngôn khủng ngô vô kỳ
thực, khinh dụng ngô thân, nhi vong ngô quốc. Ngô dữ Khổng- Khưu, phi
quân thần dã, đức hữu nhi dĩ hĩ."
CHÚ:
Linh phủ: chỗ ở của tinh thần, ám chỉ cái Tâm của mình. í nói những vấn
đề thuộc về việc Sống Chết, Cùng Thông, Hiền Ngu, Phải Quấy… chỉ là
những sự bất thường, không nên để cho nó làm điên đảo sự yên tĩnh của
tâm hồn.
Linh phủ đồng một nghĩa với linh đài mà Trang tử thường dùng ở Canh
Tang Sở trong câu "Bất khả nội ư linh đài". ở đây Quách Tượng giải chữ
linh đài là ám chỉ cái Tâm.
DỊCH NGHĨA: