Năm Thiệu Trị thứ 7 ( 1847 ), Vua se mình không vui. Lịnh bà hầu hạ vua và
cầu đảo thần thánh ngày đêm, không ăn uống nghỉ ngơi. Đến lúc Vua gần lâm
chung, mọi việc về sau nhất nhất Lịnh bà đều nhận lời phúc cho. Vua tận mặt
dạy các quan rằng:
“Quý phi là nguyên phối ( vợ đầu ) của Trẫm, phúc đức hiển minh giúp Trẫm
việc nội chính trong 7 năm. Đến nay ý Trẫm muốn sách lập Quý phi làm Hoàng
hậu chính vị trong cung. Tiếc thay đành không kịp.”
Ngày 23 Canh thân vua Tự Đức vừa nối ngôi ( 1848 ) đem tôn nhân và các quan
trong triều bưng kim sách, kim bảo ( bảng sách vàng và ấn vàng ) kính dâng tôn
hiệu Hoàng Thái hậu cho Lịnh bà.
Đến ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi ( vị ) năm Tức Đức thứ 36 ( 1883 ) vua Tự
Đức thăng hà, để lại di chiếu tân phong Lịnh bà làm Từ Dụ Hoàng Thái hậu.
Ngày 20 tháng tư nhuận năm Đinh Hợi năm Đồng Khánh năm thứ 2 ( 1887 ),
Vua dẫn Hoàng thân, tôn nhân và các quan văn võ dâng kim sách, kim bảo tấn
tôn huy hiệu cho Lịnh bà làm Từ Dụ Bác huệ Thái hoàng Thái hậu.
Khi Thành Thái lên ngôi ( 1889 ), tháng giêng mùa xuân đầu Thành Thái
nguyên niên, Tháng tư mùa hạ Vua tấn tôn Lịnh bà làm Từ Dụ bác huệ Khang
thọ Thái hoàng thái hậu.
Ngày mùng 5 tháng 4 mùa hạ năm Tân Sửu nhằm Thành Thái thứ 13 ( 1901 ),
Lịnh bà se mình không vui rồi băng, thọ được 93 tuổi. Linh cữu đặt ở cung Gia
Thọ. Trong ngày tháng 5 dâng tên thụy cho Lịnh bà là Nghi thiên tán thành Từ
Dụ bác huệ trai túc tuệ đại thọ đức nhân công Chương hoàng hậu.
Ngày 22 tháng 5 cử hành đại lễ tống chung Lịnh bà ở nơi đất tốt muôn muôn
năm, núi bên phải Xương lăng ( lăng của vua Thiệu Trị ), gọi là Xương Thọ
lăng.