làm cho cậu bé tốn nhiều năng lượng hơn. Nhưng giả thuyết này bỏ qua
một nguyên tắc cơ bản về cách não tiếp nhận những kỹ năng mới. Kết quả
điện não đồ cho thấy não của tôi, chứ không phải của Austin, phải làm việc
thêm giờ, đốt một lượng năng lượng lớn hơn để thực hiện nhiệm vụ phức
tạp này. Điện não đồ của tôi cho thấy hoạt động cao trong dải sóng Beta, có
liên quan đến việc giải quyết vấn đề mở rộng. Austin, mặt khác, hoạt động
cao trong dải sóng Alpha, một trạng thái gắn liền với não lúc nghỉ ngơi.
Mặc cho tốc độ và sự phức tạp của hành động, bộ não của Austin vẫn ở
trạng thái thanh thản.
Tài năng và tốc độ của Austin là kết quả của những thay đổi thể chất
trong não cậu bé. Trong những năm tập luyện, các mô hình chi tiết của các
mối liên kết vật lý đã hình thành. Cậu đã khắc ghi những kỹ năng xếp cốc
vào cấu trúc của neuron. Do đó, Austin bây giờ chỉ cần sử dụng ít năng
lượng hơn để xếp cốc. Ngược lại, não của tôi đang vật lộn với vấn đề này
bằng những suy nghĩ có ý thức. Trong khi tôi đang sử dụng phần mềm nhận
thức chung; Austin đã chuyển đổi kỹ năng thành phần cứng nhận thức
chuyên sâu.
Khi chúng ta luyện tập những kỹ năng mới, những kỹ năng này dần trở
thành kết nối vật lý rắn chắc, ẩn mình dưới ý thức. Một số người nghĩ rằng
có thể gọi nó là bộ nhớ cơ bắp, nhưng trên thực tế các kỹ năng không được
lưu trữ trong các cơ: thay vào đó, một thói quen như xếp cốc được phối
ngẫu trong khu rừng dày đặc kết nối trong não.
Cấu trúc chi tiết của các mạng lưới trong não Austin đã thay đổi theo
những năm tháng luyện tập xếp cốc. Một bộ nhớ quy trình là một bộ nhớ
dài hạn thể hiện làm sao để việc nào đó được thực hiện một cách tự động,
như đi xe đạp hoặc buộc dây giày. Đối với Austin, việc xếp cốc đã trở thành
một ký ức quy củ được ghi vào phần cứng vi mô của bộ não, giúp cho hành
động của cậu bé trở nên nhanh chóng và tiết kiệm năng lượng. Thông qua