hơn một năm, còn thượng nghị sĩ thường có nhiệm kì hai hoặc ba năm.
Khi ban cho thượng nghị sĩ cái đặc quyền được cắt cử ra làm việc trong
nhiều năm và bằng cách thay thế họ cả loạt, luật pháp đã cẩn thận giữ lại
trong lòng cơ quan lập pháp này một nhóm người làm nhân lõi đã quen việc
và là những người có thể có ảnh hưởng tốt đến những người mới.
Bằng cách chia ngành lập pháp làm đôi, như vậy là người Mĩ không muốn
tạo ra một bên là một nhánh truyền đời và một bên là một nhánh do bầu cử
mà có, họ cũng chẳng có dụng ý tạo ra một tổ chức quý tộc và một tổ chức
đại diện cho nền dân trị. Mục đích của họ cũng chẳng phải là tạo ra ở
Thượng viện một chỗ dựa cho chính quyền và để mặc cho viện dân biểu việc
chăm lo lợi ích và đam mê của dân chúng.
Phân chia lực lượng lập pháp thành hai ngành, bằng cách đó làm giảm
cường độ vận động của các cuộc đại nghị chính trị, và lập ra một toà sơ
thẩm để xem xét lại các bộ luật, đó là những ưu thế duy nhất có được nhờ cơ
cấu hiện thời của hai viện tại Hoa Kì.
Thời gian và trải nghiệm đã giúp người Mĩ nhận ra rằng, chỉ xét riêng
những ưu thế đó thì việc phân chia quyền lực lập pháp vẫn tỏ ra là một điều
cần thiết hàng đầu. Trong tất cả các bang, chỉ riêng Pennsylvania là ban đầu
đã định làm thử chỉ lập ra một Viện thôi. Bản thân Franklin, người bị lôi
cuốn vì những hệ quả của tín điều nhân dân tối thượng, đã giúp vào việc
thực hiện giải pháp này. Thế rồi họ cũng sớm phải thay luật và lập ra hai
viện. Và như thế là nguyên tắc phân chia quyền lập pháp làm hai đã được
chính thức hoá một lần cuối. Và kể từ đó ta có thể coi nhu cầu phân chia
hành động lập pháp cho nhiều tổ chức như là một chân lí đã được chứng
minh. Cái lí thuyết đã hầu như bị các quốc gia cổ đại không biết gì tới ấy,
tình cờ được du nhập vào cuộc sống, cùng với hầu hết những chân lí lớn
khác vốn chẳng được các quốc gia hiện đại thừa nhận, cuối cùng đã trở
thành như là một tiên đề trong môn khoa học chính trị ở thời đại chúng ta.
VỀ QUYỀN HÀNH PHÁP CỦA BANG