cho họ những gì họ coi là một sự trả công lao động công bằng.
Trong cuộc đấu tranh liên tục về vấn đề tiền công giữa hai giai cấp đó, các
thế lực không cân sức nhau, thắng lợi thì khi về tay bên này lúc về tay bên
nọ.
Thậm chí ta có thể nghĩ rằng, về lâu về dài thì lợi ích của người công
nhân phải thắng thế; bởi vì những khoản tiền công cao mà họ đã nhận được
khiến họ càng ngày càng bớt phụ thuộc vào các ông chủ, và chừng nào mà
họ càng độc lập hơn, thì khi đó họ càng dễ dàng hơn trong việc nhận được
tiền công cao hơn.
Tôi sẽ đem ra làm thí dụ cái khu vực sản xuất mà ngày nay vẫn còn rất
phổ biến trong chúng ta cũng như ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới:
canh tác đất đai.
Ở Pháp, phần lớn những người thuê các dịch vụ để canh tác đất đai của
mình đều để lại một vài mảnh để khi cần thì họ tự canh tác mà sống và
chẳng phải đi làm thuê cho người khác. Khi những người như thế đi tìm việc
làm cho một đại điền chủ hoặc cho một anh tá điền hàng xóm mà lại bị từ
chối trả một món tiền công như đòi hỏi, các bác đó sẽ trở về cái dinh cơ bé
nhỏ của mình và đợi một cơ hội khác.
Tôi nghĩ rằng khi xem xét vấn đề một cách toàn diện, ta có thể nói rằng
việc chậm nâng cao dần tiền công là một trong những quy luật tổng quát chi
phối các xã hội dân chủ. Chừng nào các điều kiện trở nên ngang bằng hơn
nữa, thì tiền công được nâng lên, và khi tất cả các tiền công đều cao, thì các
điều kiện cũng trở nên ngang bằng hơn.
Nhưng vào thời chúng ta đang sống bây giờ, ta bắt gặp một ngoại lệ to lớn
và đau khổ.
Trong một chương trước, tôi đã chỉ ra việc tầng lớp quý tộc, sau khi bị
xua đuổi khỏi chính trường, đã rút lui vào một số vùng sản xuất công
nghiệp, và đã dựng lên ở đó cơ ngơi mới của họ nhưng lại mang một dạng
thức khác.
Điều này có ảnh hưởng mạnh đến tỉ giá tiền công.