thâm hụt này vẫn là khá nhỏ bé so với quy mô to lớn của nền kinh tế Mỹ.
Nhưng sau năm 2000 thì mọi chuyện tồi tệ đi rất nhiều.
Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI, với sự trỗi dậy của Trung Quốc
như một nền kinh tế xuất khẩu, thâm hụt thương mại của Mỹ bình quân đạt
mức 600 tỷ USD / năm, đỉnh điểm lên tới 703 tỷ USD vào năm 2006. Chia
trung bình cho mọi người Mỹ, kể cả trẻ em lẫn người lớn, con số này nghĩa
là 2.500 USD cho mỗi đầu người!
Sau khi đợt suy thoái 2008 bắt đầu, con số thâm hụt bắt đầu giảm xuống.
Nhưng như chúng ta sẽ thấy, các chính sách của Chính phủ Mỹ chẳng mấy
chốc sẽ chặn đứng đà quay đầu tích cực của con số này.
Bình thường thì thâm hụt thương mại sẽ có xu hướng tự điều chỉnh.
Chẳng hạn, một quốc gia có thặng dư thương mại, tức là xuất khẩu nhiều
hơn nhập khẩu, sẽ tạo ra một nhu cầu cho đồng tiền của họ, xét trên phạm
vi quốc tế. Cụ thể, nếu bạn muốn mua hàng của quốc gia đó, bạn cần phải
có tiền của họ. Kết quả là, vị thế thương mại mạnh sẽ dẫn tới đồng nội tệ
mạnh. Điều ngược lại cũng xảy ra với vị thế thương mại yếu. Khi không ai
muốn mua hàng của một quốc gia, không ai cần đồng nội tệ của quốc gia
đó nữa, từ đó đồng nội tệ đó sẽ suy yếu đi.
Nhưng khi một đồng nội tệ mạnh lên, sản phẩm của quốc gia đó sẽ trở
nên đắt đỏ hơn trước. Điều này tạo ra cơ hội cạnh tranh, cho phép những
quốc gia với đồng tiền yếu hơn bán được một số sản phẩm của họ trên thị
trường. Khi những quốc gia này bán được nhiều hàng hóa hơn, nhu cầu về
đồng tiền của họ cũng tăng theo. Đối trọng về tiền tệ này giúp sự mất cân
bằng về thương mại luôn được kiểm tra, theo dõi.
Nhưng chính địa vị là đồng tiền dự trữ quốc tế, cũng như việc Trung
Quốc quyết định neo tỷ giá đồng nhân dân tệ với dollar Mỹ đã chặn đứng
cơ chế tự điều chỉnh nói trên và khiến cho tình hình trở nên nguy hiểm
ngoài tầm kiểm soát.