Miếu lúc đầu lập sơ sài lợp lá.
''Đến năm 1926, ngôi miếu này được tái thiết thật đồ sộ bằng gạch, lợp
ngói, cột căm xe nền đúc cao ráo (dù nước lụt cũng không ngập) và sừng
sững đứng yên lặng trong đồng xa vắng, cách lộ độ 200 thước ngoài có
cổng lợp ngói, cột danh mộc rất uy nghiêm. Đi vào miếu có con lộ cao
ráo, xe hơi có thể ra vào thong thả. Lưỡng biên con lộ này trồng hai hàng
sao suôn đuột ngó trật ót.
''Trước sân miếu có hàng dương cao vút. Vài cây bị sét đánh gãy cụt đọt.
Bên phải miếu có vài cây đa cổ thụ, cành lá sum suê. Bên trái có ít cây
lâm vồ, tàn to che khuất một góc miếu. Phía sau là ba cây BẰNG LĂNG.
Theo lời mấy ông bô lão nói lại thì ba cây Bằng Lăng này không biết do
ai trồng hay mọc tự hồi nào? Cả ba cây tàn lá sum suê, to lớn như nhau,
giao cành và đứng giang giang rất đều khoảng, sang xuân bông trổ đỏ ối,
xa trông lầm ngỡ là hoa phượng vĩ.
''Cạnh miếu, một cái hồ khá to nằm im lặng, sen mọc lác đác, tạo thành
một cảnh trí nên thơ. Những buổi chiều êm ả, người ta thường thấy le le,
vịt nước, bồng bồng thả bập bênh trên mặt hồ, trông thật vô cùng ngoạn
mục. Đầm hình chữ nhật, khá sâu. Diện tích non ba mẫu tây. Nơi đây có
nhiều loại cá lưu lại suốt năm như rô, trê, lóc v.v... ấy là một thực phẩm
bình dân dành cho kẻ nghèo xóm miếu (Đầm này đã cạn dần, vì hàng
năm cứ đến mùa nước ngập, con mương Ông cả Phan Văn Trọng (đã qua
đời), gần đây dẫn nước pha đất phù sa sông Cửu mà bồi lên mãi. Sau
miếu, đàn mục tử thỉnh thoảng cỡi trâu bò qua lại trông không khác nào
một trong bức tranh tứ thú.
''Sở dĩ lịch sử ngôi miếu này được rực rỡ nổi danh là nhờ ba cây BẰNG
LĂNG nói trên, đứng sừng sững phía sau miếu.
Vì sự tôn trọng Bà, nên dân địa phương gọi trại ra là ''Miếu Bằng Lăng''
rồi thành danh đến nay.
''Xa nhìn cảnh trí hùng vĩ và tĩnh mịch của ngôi miếu, nhàn khách có
cảm nghĩ đây là một nơi thờ phượng một vị công thần của dân tộc. Chỗ