Đền này còn được gọi là đền Giếng, ở trước đền thờ có mạch nước chảy
thành giếng trong và mát. Đền Giếng còn có tên là đền Hạ, bởi ở ngay
dưới chân núi.
Vào lễ đền Giếng xong, khách lên đền Trung và đền Thượng.
Từ đền Hạ lên đền Thượng phải leo 296 bực đá.
Đền Trung ở lưng chừng núi, giữa khoảng hai đền Thượng và Hạ. Ở
cạnh đền Trung có ngôi chùa của xã Hy Cương, và ở ngay trước đền có
nhà Bia với một bia chính lớn và rất nhiều tấm bia phụ.
Tấm bia chính, nét chữ khắc còn rõ, nhắc lại lịch sử của các đức Hùng
Vương, còn các tấm bia phụ ghi về công việc xây đền cùng danh sách
những vị đã giúp công giúp của vào công việc trùng tu đền.
Đền Thượng ở trên đỉnh núi, thờ mười tám đức Hùng Vương. Trước đền
có bức hoành phi mang bốn chữ VIỆT NAM TRIỀU TỔ. Đền này trước
đã đổ nát mới được trùng tu vào năm 1914. Nhân dịp trùng tu đền này,
cuộc lễ Tổ đã được tổ chức rất trọng thể.
Ở chính giữa bàn thờ đền Thượng có bài vị 18 đức Hùng Vương với 14
chữ sau đây:
ĐỘT NGỘT CAO SƠN CỔ VIỆT HÙNG THỊ THẬP BÁT THÁNH
VƯƠNG VỊ
Lại có rất nhiều câu đối chữ Hán có, chữ Nôm có trong số đó có đôi câu
đối Nôm của cụ Nguyễn Kỳ Nam được nhiều người chú ý:
Đồ vương tranh bá, thôi nói chi lịch đổi số trời, hỏi trước sau truyền bốn
nghìn năm, nước biếc non xanh, bờ cõi ai xây bờ cõi ấy;
Vấn tổ tìm tông, nay vẫn còn lăng xưa miếu cũ, kể nhiều ít hai mươi
nhăm triệu, con đàn cháu đống, cỗi cành đâu chẳng cỗi cành đây.