lớn lên vào Hoa Lư làm quan với nhà Tiền Lê đến chức Tả Thị vệ Điện
tiền Chỉ huy sứ. Khi vua Lê là Lê Long Đĩnh mất, triều đình thấy nhân
dân oán giận nhà Lê, tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Vua Lý Thái Tổ dời
đô về Thăng Long và truyền ngôi được tám đời, cho tới đời Lý Chiêu
Hoàng mới chuyển sang nhà Trần.
Nguyên vua thứ tám của nhà Lý là Lý Huệ Tôn bị bệnh lại không có con
trai nên sau khi trị vì được 14 năm thì truyền ngôi cho con gái thứ hai là
Phật Kiên, tức là Chiêu Thánh công chúa. Công chúa lên ngôi lấy hiệu là
Lý Chiêu Hoàng.
Chiêu Hoàng làm vua nhưng quyền chính ở cả trong tay Trần Thủ Độ.
Muốn chiếm ngôi nhà Lý, Thủ Độ tìm cách cho cháu mình là Trần Cảnh
lấy Lý Chiêu Hoàng.
Năm Ất Dậu (1225), Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng và nhà Lý
cũng mất từ đó.
Nhà Lý làm vua được tất cả 216 năm đã có công làm cho nước Nam trở
nên cường thịnh.
Hội làng Đình Bảng hàng năm nhắc nhở cho dân ta công ơn nhà Lý với
đất nước và một thời oanh liệt của dân tộc.
Hội Gióng và tục diễn lại sự tích Phù Đổng Thiên
Vương phá giặc Ân
Ca dao có câu:
Mồng bảy hội Khám,
Mồng tám hội Dâu,
Mồng chín đâu đâu