Làng xóm Việt Nam
34
làng khác hẳn với những làng đã nêu trên. Đó là những làng thủy
cơ, thiết lập ở trên mặt nước còn được gọi là làng vạn, hay làng
chài,
gồm những người làm nghề chài lưới hay chở đò.
Theo nguyên lý thì làng chài nào cũng phụ thuộc với một xã
thôn ở trên đất.
(1)
Và như vậy làng chài chỉ là một thôn của một
làng khác. Thực ra thì làng chài vốn là làng riêng mà nhà nước
chỉ bắt theo về một xã thôn trên đất để tiện việc thu thuế, cho
nên những dân thủy cơ tuy phải đóng sưu thuế cho lý trưởng mà
vẫn không có liên lạc gì với xã thôn ấy cả. làng thủy cơ thường
là một đơn vị hành chánh độc lập, có đủ tổ chức như một xã
thôn, hoặc thống thuộc vào một tổng với các làng ở cạn, hoặc
nhiều làng họp thành một tổng thủy cơ riêng.
(2)
Đã gọi là làng phải có đình làng để làm nơi dân làng hội
họp, và cũng phải có nơi để thờ cúng vị thành hoàng. Đình làng
thường được xây trên một miếng đất làng đã mua được của một
làng khác. nhiều làng, đất không có, ngôi đình chỉ là một chiếc
thuyền lớn hay cái nhà bè. Thành hoàng được thờ phụng ở đây,
và khi có việc hội họp dân làng cũng tới đây.
Làng thủy cơ nhiều khi là những làng lưu động, thường cả
làng di chuyển từ nơi này qua nơi khác, chiếc đình làng cũng
được di chuyển dời theo. Mỗi khi có cuộc làng thiên cư như vậy,
dân làng phải lễ cáo thần linh.
Vì làng thủy cơ là những làng sinh sống về nghề chài lưới
hoặc chở đò, nên xưa kia Triều Đình thường cho phép những
làng này được giữ độc quyền sinh sống trên một khúc sông.
ngày nay, thỉnh thoảng ta còn gặp những làng chài được khai
thác một khúc sông nào, nhất là ở Bắc và Trung Việt, nhưng
phải đóng thuế hàng năm cho nhà nước.
1. Đào Duy Anh - Việt Nam văn hóa sử cương. Nhà Xuất bản Bốn Phương.
2. Đào Duy Anh - Việt Nam văn hóa sử cương. Nhà Xuất bản Bốn Phương.
Thực hiện ebook: www.hocthuatphuongdong.vn