Năm 1959, Cách mạng Cuba thành công, ông là người ủng hộ nhiệt
thành và làm phóng viên thường trú của hãng thông tấn Cuba Prênxa
Latina tại Bôgata, sau đó ở Cuba và ở Nữu Ước. Từ năm 1961 đến năm
1967 ông cư trú ở Mêhicô, làm báo, viết thuyết minh phim. Năm 1962, ông
xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ hai: Giờ xấu và tập truyện Đám tang của bà
Mẹ Vĩ đại. Năm 1967 ông xuất bản Trăm năm cô đơn, tiểu thuyết hay nhất
của ông. Cuốn tiểu thuyết này được Ý trao giải Chianchianô, được Pháp
công nhận là cuốn sách hay nhất trong năm và được giới phê bình Mỹ thừa
nhận là một trong mười hai cuốn sách hay nhất trong những năm sáu mươi
của thế kỷ này. Hai năm sau ông cho in truyện vừa: Chuyện buồn không
thể tin được của Erênhđira ngây thơ và của người bà bất lương cùng một
số truyện ngắn khác. Cùng năm này ông nhận giải thưởng văn học
Rômugô Gadêgô của Vênêxuêla. Năm 1971 ông nhận bằng Tiến sĩ văn
học danh dự của trường đại học Côlômbi (Mỹ) và giải Neustad dành cho
người nước ngoài. Năm 1973, ông cho in tập tự truyện về những ngày ông
sống ở thủ đô Caracat với nhan đề Khi tôi hạnh phúc và là người không
có chứng chỉ. Năm 1975, ông cho in tiểu thuyết Mùa thu của ngài trưởng
lão, một trong những cuốn sách hay viết về chế độ độc tài ở Nam Mỹ, được
dư luận quốc tế đánh giá cao và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Ông lại trở
về sống ở thủ đô Bôgata, tiếp tục viết báo nói về Chilê, Cuba, Nicaragoa,
Angôla và Việt Nam, xuất bản tập Ký sự và phóng sự. Năm 1981 ông nhận
viết thường xuyên cho tờ Quang cảnh. Ông được chính phủ Pháp tặng
huân chương Bắc đẩu bội tinh. Ông cho xuất bản tiểu thuyết Ký sự về một
cái chết đã được báo trước, cuốn sách có số lượng in lớn nhất: một triệu
ba mươi vạn bản (chỉ tính riêng bản in tiếng Tây Ban Nha). Năm 1982, ông
được Viện Hàn Lâm Thụy Điển tặng giải Nôbel.
G. Garcia Márquez là người bạn thân thiết của nhân dân ta, luôn dành
cho nhân dân ta tình cảm yêu mến nồng hậu và sự ủng hộ nhiệt tình. Năm
1979, nhà văn sang thăm Việt Nam, đã viết phóng sự Sự thật của tôi về
người Hoa.