nữa đến. Họ nhốn nháo đi lại lung tung để tìm nơi ăn chốn ngủ. Ngoài
đường đông nghịt người, không tài nào len chân tới.
Người ta vẫn đổ về làng này. Những người phụ nữ, khi làng này điêu tàn
đã bỏ đi, nay lại trở về cửa hàng bác Catarinô. Người nào cũng béo tốt,
cũng tô điểm lòe loẹt, mang theo những đĩa hát hợp mốt mới, những đĩa hát
chẳng gợi ai nhớ ai. Một số người vốn là dân gốc ở làng này cũng trở về.
Họ đã phiêu bạt đi nơi khác, từng sống trong tiền bạc nay trở về làng hễ mở
miệng là phơi của cải của mình nhưng vẫn diện bộ quần áo đã mặc lúc ra
đi. Đổ về làng này còn có cả phường nhạc, bàn xổ số, sòng bạc, bàn bói
toán, cả những tên găngxtơ, cả những người đàn ông cuốn một con rắn nơi
cổ mình đang rao bán thuốc trường sinh bất tử. Vài tuần sau nữa, người ta
vẫn ùn ùn kéo tới làng này bất chấp những trận mưa đầu tiên, bất chấp biển
đã trở mình, ngầu bọt và cái mùi hoa hồng ấy đã biến mất.
Trong số những người đến sau cùng có một cha xứ. Cha đi khắp làng,
vừa đi vừa ăn bánh mì chấm càphê sữa đựng trong một chiếc cốc vại. Dần
dần cha cấm đoán tất cả những gì đã có từ trước: đánh bạc, nhạc mới cùng
với những điệu nhảy phù hợp với âm nhạc này, và ngay cả cái thói quen
ngủ ngoài bãi biển mới có. Một buổi chiều nọ, tại nhà bác Menchô, cha đọc
một bài thuyết giảng về cái mùi hoa hồng.
- Hỡi các con, các con hãy cảm ơn Đức Chúa Trời – Cha nói – Bởi vì cái
mùi hương này chính là mùi hương của Thượng đế.
- Thưa đức cha, vì sao đức cha biết nếu như đức cha vẫn chưa được ngửi
bao giờ? – có người bạo phổi ngắt lời cha.
- Trong Kinh thánh cái mùi hương này đã được giải thích rõ – cha trả lời
– Chúng ta may mắn đang sống trong một làng được Chúa yêu mến.