381
380
Anh Cân: mũ của quan võ chưa nhập
lưu triều Nguyễn.
Áo bà ba: loại áo vạt ngắn không bâu, xẻ
giữa, cài bằng cúc, phổ biến ở Nam Bộ.
Áo chít: Xem Áo (dài) năm thân.
Áo Cừu: một trong những loại áo tránh
rét của giới trung lưu, quý tộc. Ở Việt Nam,
áo Cừu bên ngoài là da, bên trong là lông,
được làm bằng lông cáo (Hồ Cừu) hoặc
lông chồn (Điêu Cừu).
Áo (dài) năm thân: chỉ loại áo may bằng
năm khổ vải (vạt trước hai khổ, vạt sau hai
khổ, thân bên phải dôi ra một khổ ngắn
nữa), phân biệt với các dạng áo được may
bằng bốn khổ vải như áo tứ thân, áo giao
lĩnh.
Bàn long: chỉ hoa văn rồng tròn (rồng ổ)
thêu trên áo bào.
Bao Cân: mũ Thường triều của vương,
hầu để tóc ngắn thời Trần.
Bao Đính: mũ Tiện phục của các vị văn
nhân, quan lại quý tộc thời Lê Trung Hưng,
kiểu dáng tròn, đỉnh phẳng, cao khoảng
một thước, làm bằng lông đuôi ngựa, nên
còn gọi là Mã vĩ Bao Đính.
Bào phục: hay áo bào, chỉ loại trang
phục mặc khi thiết triều của vua quan
phong kiến.
Bát bảo: tám dạng hoa văn thêu trên áo
bào của vua quan nhà Nguyễn.
Bát Tiên: loại mũ trang trọng của văn
Thất
phẩm
Văn Tú Tài:
phía trước 1
hoa bạc, 2 giao
long bạc, phía
sau 1 hoa bạc
Lộ tư
(chính: nền
đỏ, tòng:
nền xanh)
Tòng thất
phẩm đội
Văn Tú Tài
như văn
chính thất
phẩm
Bưu
tòng:
nền
xanh
-Áo như trên
-Thường: làm
bằng sa, đoạn,
màu xanh, lục
tùy nghi; phần
màu thái
lục hai bên
thường không
thêu hoa tròn
Bát
phẩm
Văn Tú Tài:
phía trước 1
hoa bạc, sau 1
hoa bạc
Khê xích
Tòng bát
phẩm đội
Văn Tú Tài
như văn
chính bát
phẩm
Hải mã
-Áo giao lĩnh
màu gốc bằng
sa, đoạn; màu
xanh, lục, lam,
đen cho tùy
nghi.
-Thường: Như
trên
Cửu
phẩm
Văn Tú Tài:
phía trước 1
hoa bạc
Liêu thuần
nền xanh
Tòng bửu
phẩm đội
Văn Tú Tài
như chính
cửu phẩm
Tê
ngưu
Như trên
Chưa
nhập
lưu
Phong Cân:
trước sau đều
sức 1 sợi bạc
Tuy Cân:
trước sau
đều sức 1
sợi bạc
Áo giao lĩnh
màu gốc bằng
sa, đoạn; màu
xanh, lục, lam,
đen cho tùy
nghi
nhân, nho sĩ và đàn ông thường dân thời
Lê Trung Hưng, làm bằng đoạn màu huyền
hoặc sa the, đỉnh phẳng, trên may cánh hoa
cúc mấy lớp đùm lên nhau, quanh mũ gấp
nếp, dải dây buộc ngang trán, buông phần
thừa ra sau gáy và hai tai có diềm rủ, gần
tương tự mũ Bao Đính.
Bình Đính: loại mũ đỉnh phẳng nói
chung. Vào thời Lê Trung Hưng, danh xưng
Bình Đính đặc chỉ loại mũ tế của vua chúa
và các quan. Đến thời Nguyễn, từ năm 1816,
danh xưng này chỉ loại mũ Đại triều của các
hoàng tử, hoàng thân được ban tước thân
vương, quận vương, thân công, quận công.
Bình Thiên: 1. tên gọi khác của mũ
Miện. 2. tên gọi khác của loại mũ Triều
phục Bình Đính của hoàng tử, hoàng thân
được ban tước thân vương, quận vương,
thân công, quận công triều Nguyễn. Xem:
Miện, Bình Đính.
Bổ phục: chỉ Bào phục gắn Bổ tử.
Bổ tử: còn gọi là Hung bối, chỉ vuông vải
thêu hình chim thú gắn ở trước ngực và sau
lưng áo bào, dùng để phân biệt phẩm cấp
của bá quan. Quy chế trang phục Thường
triều Hung bối - Bổ tử định hình vào thời
vua Minh Thái Tổ - Trung Quốc, được áp
dụng vào triều đình Việt Nam từ năm 1471.
Bội: còn gọi là thùy bội, chỉ dải ngọc đeo
hai bên hông, được gắn kết bằng các loại
ngọc có hình thù khác nhau.
TIỂU TỪ ĐIỂN
TRANG PHỤC VIỆT NAM