như sau: “Ông vua ao, đi tát đầm, chép không, quả không, rô không, diếc
không, tôm không, tép không, vớ mỗi cua đồng hai càng, tám cẳng”. Từ
đấy, người ta gọi The là “Hoàng hậu cua đồng”.
Một lần, bà mẹ đẻ của The gửi biếu bà thông gia trên phố năm quả cà
tiến. Năm quả cà màu hổ phách, trong như thạch, được bọc cẩn thận trong
giấy bản. Xưa, dân làng của The, hàng năm thường dâng vua loại cà này
nên gọi là cà tiến.
- Cà bát bánh tẻ, loại to, tròn, dày cùi, ít hạt và không một nốt sâu đục,
ong châm mới làm cà tiến được mợ ạ – The say sưa kể với mẹ chồng – Cà
hái về không rửa mà dùng giấy bản lau sạch đi mang phơi ba nắng cho héo
rồi ngâm vào chum tương ba ngày, ba đêm. Sáng ngày thứ tư vớt cà ra,
dùng giấy bản lau khô lại phơi ba nắng cho héo và lại để vào một chum
tương khác, ngâm ba ngày, ba đêm, rồi lại vớt ra, lau sạch, phơi héo, lại
ngâm tiếp vào một chum tương khác. Cứ như thế, qua năm ngâm, năm
phơi, mất nửa tháng giời và năm chum tương thì mới được một mẻ cà tiến.
Bà Thoại nhọn mỏ, vuốt quết trầu và xì một tiếng rõ to:
- Đúng là cái trò dớ dẩn của dân cua đồng. Đã làm vua ai còn ăn cà muối
mà vẽ vời rách việc.
Câu nói của bà mẹ chồng thừa tiền mà thiếu học khiến The ứa nước mắt.
Cô tủi thân mình, tủi phận mình, tủi thêm cho cả mẹ cô ở làng quê.
II. Khi vua thất thế
“Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa”.
Ca dao Việt Nam từng có bốn câu như vậy, nó không chỉ nói về đẳng cấp
và khát vọng hoàn cải của nhân dân mà còn nói về cái lẽ thăng trầm ở đời.