“Còn, và đấy cũng là một tội lỗi nho nhỏ của tôi,
bởi vì tôi không phải là một nhà toán học và tôi
hiện đang đọc một cuốn sách về chiều thứ tư. Tôi
nhận ra rằng mình thật trẻ con và ngờ nghệch về
chiều thứ tư, đến mức tôi đã ghi lại những suy
nghĩ này, vì nghĩ rằng mình có thể bổ sung một
cái gì đó cho nó, nhưng tôi có thể thấy rằng thực
sự là mình quá khờ khạo đối với loại công việc
kiểu này”.
Mặc dù Minkowski đã khám phá ra bản chất của không gian bốn chiều từ
năm 1908 và Duchamp bắt đầu sáng tạo năm 1915, những không hề có bằng
chứng nào trong các bài viết của Duchamp hay về Duchamp gợi ra việc ông có
biết về các ý tưởng của Minkowski. Bện xoắn không gian và thời gian vào
trong cấu trúc của Tấm kính lớn để gợi nên sự thống nhất của chúng có vẻ hoàn
toàn là ý tưởng độc đáo của Duchamp. Hơn thế nữa, theo lời miêu tả của
Calvin Tomkins, ông còn tích hợp vào trong tác phẩm của mình một biểu hiện
rất cụ thể hữu hình về dòng trôi của thời gian:
“Các cố gắng của Duchamp nhằm hoàn thành nó
trở nên ngày một thất thường. Sáu tháng liền
Tấm kính lớn nằm trơ không được ngó ngàng
trong xưởng vẽ, tích tụ một lớp bụi dày, là thứ
mà sau đó Duchamp lại dùng ngay thành một
màu vẽ: ông gắn lớp bụi trộn sơn bóng xuống
một phần “cỗ máy của chàng độc thân” (phần
“cái sàng”) rồi phủi sạch chỗ bụi còn lại. Việc
này đem lại cho ông một loại màu mới không hề
có từ các tuýp sơn. Man Ray đã ghi lại cảnh
“nuôi bụi” trong một bức ảnh năm 1920, nom
hao hao giống như phong cảnh lạ lùng trên mặt
trăng”.
Việc đưa các hạt bụi, những thời khắc li ti của dòng thời gian vào trong một
tác phẩm phẳng nhưng trong suốt mang ngụ ý về cả ba vectơ của không gian