năm trước đối với người Canada gốc Pháp bị chinh phục, những người
không chỉ được phép giữ lại nhà cửa mà còn cả hệ thống luật pháp và thể
chế tôn giáo. Đây là điển hình đầu tiên rất có ý nghĩa về “chế độ chuyên
chế”; vì những người Mỹ gốc thực dân là dân tộc dân chủ đầu tiên trong xã
hội phương Tây chúng ta.
Sự ràng buộc hệ thống công nghiệp với chính quyền địa phương một
cách sai lầm đã sinh ra chủ nghĩa dân tộc kinh tế tai hại chẳng kém gì chủ
nghĩa dân tộc chính trị.
Tất nhiên, người ta chưa biết tới những tham vọng và cạnh tranh kinh
tế trong đời sống chính trị thế giới vào thời kỳ tiền công nghiệp; thực vậy,
chủ nghĩa dân tộc kinh tế là biểu hiện kinh điển của “chủ nghĩa con buôn vị
kỷ” vào thế kỷ 18, và chiến lợi phẩm trong cuộc chiến tranh thế kỷ 18 là
các thị trường thuộc địa và sự độc quyền tư bản, chẳng hạn hiệp ước
Utrecht cho phép nước Anh độc quyền mua bán nô lệ ở thuộc địa Tây Ban
Nha – Mỹ. Tuy nhiên, những xung đột kinh tế vào thế kỷ 18 chỉ tác động
đến các tầng lớp nhỏ. Vào thời kỳ nông nghiệp chiếm ưu thế, khi mỗi quốc
gia và làng mạc đều sản xuất hầu như mọi thứ cần dùng cho cuộc sống, các
cuộc chiến giành thị trường của người Anh được gọi là “trò tiêu khiển của
các nhà buôn”, cũng hợp lý như những cuộc chiến tranh giành lãnh thổ trên
lục địa già từng được gọi là “trò tiêu khiển của các vị vua”.
Hệ thống công nghiệp ra đời làm xáo trộn mạnh tình trạng chung của
sự thăng bằng kinh tế trên quy mô nhỏ; cũng như chế độ dân chủ, chủ nghĩa
công nghiệp thực chất là chủ nghĩa thế giới. Nếu bản chất thật của chế độ
dân chủ là tình anh em, thì yêu cầu thực chất của chủ nghĩa công nghiệp là
hợp tác trên toàn thế giới. Về phân phối xã hội theo nhu cầu của chủ nghĩa
công nghiệp, những người đi đầu trong kỹ thuật mới này tuyên bố trong
một khẩu hiệu nổi tiếng “Laissez faire! Laissez passer!” (tự do sản xuất, tự
do trao đổi). Cách đây 150 năm, với sự phân chia thế giới thành những đơn
vị kinh tế nhỏ, chủ nghĩa công nghiệp đã tái định hình cấu trúc kinh tế thế
giới theo hai hướng thống nhất. Nó cố gắng làm cho các đơn vị kinh tế trở
nên ít đi và lớn hơn, đồng thời giảm bớt rào cản giữa chúng.