những thất bại của Valerian (năm 260) và Julian (năm 363), kỵ binh mặc
giáp sử dụng thương của người Ba Tư chính là hung thần của Valens và
những quân đoàn La Mã của ông vào năm 378.
Sau trận chiến ở Adrianople, Hoàng đế Theodosius ban thưởng cho
các kỵ sĩ người rợ vì thành tích tiêu diệt bộ binh La Mã bằng cách thuê họ
lấp vào chỗ trống trong hàng ngũ quân La Mã. Và cho dù chính quyền đế
quốc sau này phải trả giá cho chính sách thiển cận này khi chứng kiến kỵ
binh người rợ hám lợi chia cắt các tỉnh miền Tây thành các tiểu vương quốc
của họ, đội quân thổ dân mới đã cứu các tỉnh miền Đông vào phút chót
khỏi con đường diệt vong đó vẫn được vũ trang theo mô hình của người rợ.
Uy thế của kỵ binh sử dụng thương kéo dài hơn cả ngàn năm. Thật dễ nhận
biết người lính kỵ binh với cây thương, bất kể trong bức bích họa từ thế kỷ
1; trên phù điêu được vua Sasanian khắc vào vách đá; trên tượng đất sét
miêu tả kỵ binh Viễn Đông chiến đấu với đội quân của nhà Tống (618-
907); hoặc trên thảm thêu thế kỷ 11 tại Bayeux nói về thất bại của bộ binh
Anh thời đó trước các hiệp sĩ Norman của vua William.
Nếu ngạc nhiên về sự phổ biến và lâu dài của kỵ binh mặc giáp sử
dụng thương, thì cũng xin lưu ý hình thức này chỉ phổ biến khi đã được cải
tiến. Một chứng nhân đã kể câu chuyện về thất bại của anh ta.
“Tôi tham gia đội quân của phó đô đốc khi ông tới gặp
người Tatar ở bờ tây Baghdad nhân trận đánh lớn vào năm 1258.
Chúng tôi gặp nhau tại Nahr Bashir, một trong những thuộc quốc
của Dujayl. Cưỡi ngựa về phía chúng tôi là một hiệp sĩ mặc
nhung y đầy đủ và ngồi trên con ngựa giống Ai Cập, trông vững
chãi tựa núi thái sơn. Sau đó, cưỡi ngựa từ phía quân Mông Cổ
tới gặp anh ta là một kỵ sĩ ngồi trên con ngựa giống như con lừa,
với cây thương giống như con suốt trên tay, không mặc nhung y
hay áo giáp, khiến ai trông thấy anh ta cũng phải bật cười. Tuy
nhiên, chiến thắng đã thuộc về những kẻ bị nhạo báng nọ, và họ
đã khiến chúng tôi đại bại”.