III. KHẢ NĂNG SO SÁNH GIỮA CÁC XÃ HỘI
(1) CÁC NỀN VĂN MINH VÀ XÃ HỘI NGUYÊN THỦY
Nếu tiến hành so sánh có hệ thống 21 xã hội, vốn là mục đích của
cuốn sách này, chắc chắn chúng ta sẽ gặp phải những ý kiến phản đối. Ý
kiến đầu tiên và đơn giản nhất phản bác vấn đề mà chúng ta đề xuất đó là:
“Các xã hội nay không có đặc điểm chung nào ngoài việc tất cả chúng đều
là môi trường nghiên cứu lịch sử, thậm chí đặc điểm này cũng quá mơ hồ
và chung chung nên có thể không tính đến cũng được”.
Câu trả lời, những xã hội là “môi trường nghiên cứu lịch sử” là một
chủng loại trong đó 21 hình mẫu tiêu biểu của chúng ta cấu thành một hình
thái cụ thể. Các xã hội thuộc về hình thái này thường được gọi là nền văn
minh (hay xã hội văn minh), để phân biệt với các xã hội nguyên thủy cũng
là “môi trường nghiên cứu lịch sử” tạo thành một hình thái khác trong cùng
chủng loại. Do đó, 21 xã hội của chúng ta cần phải có một điểm đặc trưng
tương đồng cụ thể vì chúng đều nằm trong tiến trình của nền văn minh.
Một điểm khác biệt nữa giữa hai hình thái rất dễ nhận ra. Số nền văn
minh đã biết là rất nhỏ. Còn số xã hội nguyên thủy đã biết lớn hơn rất
nhiều. Vào năm 1915, ba nhà khảo cổ Tây phương đã bắt tay vào thực hiện
một cuộc nghiên cứu so sánh các xã hội nguyên thủy. Họ đã tự đặt ra giới
hạn là chỉ nghiên cứu những xã hội có nguồn thông tin tương đối đầy đủ,
tính ra vào khoảng 650, đa số chúng đều không còn tồn tại đến ngày nay.
Không thể nào đưa ra số lượng các xã hội nguyên thủy đã hình thành rồi
suy tàn từ khi loài người xuất hiện vào khoảng 300 nghìn năm trước, nhưng
rõ ràng là số lượng của các xã hội nguyên thủy so với những nền văn minh
lớn hơn rất nhiều.
Gần như cân bằng với sự áp đảo về số lượng nói trên là sự vượt trội
của các nền văn minh so với xã hội nguyên thủy về mặt kích thước cá thể.
Các xã hội nguyên thủy đều có “tuổi thọ” tương đối ngắn, và bị giới hạn
trong những khu vực địa lý tương đối nhỏ hẹp đồng thời bao gồm số lượng
người tương đối nhỏ. Có thể nói rằng, nếu có thể tiến hành một cuộc điều