điệu” cho nhau, cho đến khi không còn tên nào trong bọn có thể hưởng
những gì đã cướp được.
Quân Macedonia sau khi giày xéo Đế quốc Achaemenid và mở rộng
bờ cõi đến Ấn Độ đã quay sang tàn sát lẫn nhau trong suốt 42 năm, từ khi
Alexander qua đời năm 323 trước CN cho đến lúc đánh bại Lysimachus tại
Corupedium năm 281. Một ngàn năm sau, lịch sử lặp lại khi người Ả Rập
gốc Do Thái cổ tràn qua những lãnh địa của người La Mã và người Sasania
ở Tây Nam Á. Hành động cướp bóc của người Ả Rập đã kéo theo 24 năm
huynh đệ tương tàn. Một lần nữa, những kẻ xâm lược đã gục ngã dưới lưỡi
kiếm của nhau, công việc tái thiết nhà nước chung Syria nhường lại cho
người Umayyad và người Abbasid thay vì rơi vào tay con cháu của
Mohammed (người sáng lập ra đạo Hồi). Những người rợ tràn qua các tỉnh
vô chủ của Đế quốc La Mã đã bộc lộ phong cách chủ nghĩa quân phiệt tự
sát của người Assyria.
Ngoài ra, chúng ta còn tìm thấy bóng dáng chủ nghĩa quân phiệt của
người Assyria khi hình dung Assyria trong bối cảnh là một bộ phận không
thể thiếu của xã hội Babylon. Trong xã hội này, Assyria là đội quân đảm
nhận nhiệm vụ bảo vệ chính mình cũng như phần thế giới của dân vùng cao
phương Bắc và phương Đông, và của những người tiên phong hung hãn
trong xã hội Syria phương Nam và phương Tây. Khi đội quân này hòa hợp
với cơ cấu xã hội chưa phân hóa trước kia, xã hội quan tâm đến lợi ích của
mọi thành viên. Do đó quân đội được khuyến khích để đáp lại thành công
thách thức đến từ thế lực bên ngoài, còn trong nước bớt đi áp lực và dồn
vào việc đối phó với những thách thức và nhiệm vụ khác. Phân chia lao
động bị phá vỡ khi dân vùng biên giới biến đội quân chống ngoại xâm
thành phương tiện thỏa mãn tham vọng. Điều này tất yếu dẫn đến nội chiến,
và lý giải những thất bại theo sau hành động cho quân Assyria chống lại
người Babylon của Tiglath-Pileser III năm 745 trước CN. Hành động kém
khôn ngoan nói trên đã gây họa cho xã hội nói chung, cũng như cho chính
dân vùng biên giới nói riêng. Việc làm này giống như người tiều phu đốn