này không thu phục được người dân Chaldaea, trái lại khuyến khích họ trả
đũa hiệu quả hơn những thách thức quân sự của Assyria. Trước những đòn
chí mạng của chủ nghĩa quân phiệt Assyria, người Chaldaea tạo ra tình
trạng hỗn loạn trong chính ngôi nhà của mình và siết chặt liên minh với
vương quốc Elam láng giềng. Và trong giai đoạn tiếp theo, hành động từ bỏ
chính sách tiết chế chính trị và cướp phá Babylon năm 689 đã dạy cho họ
một bài học ngược lại. Trong hoàn cảnh sục sôi căm thù, hành động tàn bạo
của quân Assyria đã khiến dân thành thị, dân du mục Chaldaea, thường
dân, và bộ lạc quên đi mối ác cảm lẫn nhau và hợp lại trong một quốc gia
Babylon mới không bao giờ ngơi nghỉ cho đến khi đánh đổ kẻ áp bức.
Tuy nhiên, trong phần lớn thế kỷ, cỗ máy quân sự Assyria chỉ có thể
trì hoãn một thảm họa khó tránh. Ví dụ, trong năm 639, Elam bị giáng một
đòn trí mạng tới mức lãnh thổ vô chủ rơi vào ách thống trị của dân vùng
cao Ba Tư và trở thành bàn đạp cho Achaemenidae làm chủ toàn bộ Tây
Nam Á một thế kỷ sau. Nhưng ngay sau khi Asshurbanipal băng hà vào
năm 626, người Babylon lại nổi dậy lần nữa dưới sự lãnh đạo của
Nabopolassar, người tìm thấy trong vương quốc Media mới một đồng minh
tiềm năng hơn Elam; và trong 16 năm, Assyria bị xóa tên khỏi bản đồ.
Khi nhìn lại 150 năm chiến tranh, bắt đầu từ sự lên ngôi của Tiglath-
Pileser năm 745 trước CN đến kết thúc bằng chiến thắng của người
Babylon trước Pharaoh Necho tại Carchemish năm 605, các cột mốc lịch sử
nổi bật ban đầu là những đòn đánh hủy diệt các cộng đồng của quân
Assyria – san bằng các thành phố và bắt đem đi toàn bộ dân cư: Damascus
năm 732, Samaria năm 722, Musasir năm 714, Babylon năm 689, Sidon
năm 677, Memphis năm 671, Thebes năm 663, Susa vào khoảng năm 639.
Trong hết thảy thủ phủ của tất cả quốc gia nằm trong tầm tay của quân
Assyria, chỉ có Tyre và Jesusalem là không bị xâm phạm vào thời điểm
cướp phá Nineveh năm 612. Assyria gây không biết bao nhiêu đau thương
tan tóc cho các nước láng giềng; lời xoa dịu giả dối của thầy giáo phạt đánh
học trò - “Con không đau bằng ta đau” – sẽ là lời phê bình thích đáng cho
luận điệu ngang ngược tự mãn của các tướng lĩnh Assyria về những hành