nhất của thời đại chúng ta bộc lộ trong giờ phút thắng lợi ngắn ngủi của
hắn.
“Ta đi trên con đường của mình với sự đảm bảo của người
mộng du, con đường mà Thượng Đế đã sai ta đến”.
Những lời trên đây được trích từ một bài diễn văn của Adolf Hitler
đọc tại Munich ngày 14/3/1936; và nó đã làm sởn gai ốc hàng triệu người
châu Âu ở bên ngoài biên giới Đệ tam Quốc xã (và có lẽ cả những người ở
bên trong) vốn vẫn còn chưa hoàn hồn sau sự kiện quân Đức tái chiếm
Rhineland bảy ngày trước đó.
Chúng ta còn một phiên bản tín điều khác của thuyết tiền định tâm
linh chỉ chực phá vỡ ranh giới thời gian ngắn ngủi của kiếp người trên trần
thế và đưa chuỗi quan hệ nhân quả tiến tới hoặc trở lui theo dòng thời gian
– trở lui về lần xuất hiện đầu tiên của một con người trên hành tinh này và
tiến tới đến thời điểm anh ta lìa trần. Học thuyết này có hai biến thể dường
như xuất hiện độc lập với nhau. Biến thể thứ nhất là khái niệm của Cơ Đốc
giáo về “tội tổ tông”; còn biến thể thứ hai là khái niệm của người Ấn Độ cổ
về “nghiệp chướng”, đã đi vào cả triết học Phật giáo lẫn tín ngưỡng Ấn Độ
giáo. Hai dị bản của cùng một học thuyết này thống nhất ở một điểm cơ
bản: chuỗi nhân quả vẫn tiếp nối từ kiếp này sang kiếp khác. Theo quan
điểm của người Cơ Đốc lẫn người Ấn Độ cổ, cá tính và đạo đức của một
con người sống ở kiếp này có quan hệ nhân quả với những hành động của
người đó ở (những) kiếp trước. Đến đây thì quan niệm của người Cơ Đốc
và người Ấn Độ cổ trùng hợp với nhau, nhưng vượt ra ranh giới này, chúng
ngày càng tách rời nhau.
Học thuyết của Cơ Đốc giáo về tội tổ tông khẳng định rằng một tội lỗi
cụ thể của thủy tổ loài người đã khiến tất cả mọi hậu duệ của Adam phải
thừa hưởng sự yếu đuối về tinh thần mà lẽ ra họ đã không phải gánh chịu
nếu ông ta không sa ngã; và rằng mọi hậu duệ của Adam đều phải gánh
chịu vết nhơ này – bất chấp tính độc lập và cá biệt về tinh thần của mỗi linh
hồn, vốn là một nguyên lý cơ bản của Cơ Đốc giáo. Theo học thuyết này,