đồ vốn thực hành đầy đủ mọi lời người răn dạy. Xin Người hãy trả về cho
con người chồng của con, con không sao chịu đựng sự thiếu vắng quá lâu
ngày của chàng. Xin Người hãy cho chồng con được trở về Basra để bảo
vệ trái tim người vợ đã hiến dâng trọn vẹn cho chàng, và đang bị một kẻ
tình địch rắp tâm chiếm đoạt.”
Những lời cầu nguyện ấy làm tôi choàng tỉnh giấc, lòng vô cùng băn
khoăn. Tôi cảm thấy ở giấc mơ này một điềm chẳng lành. Tôi hình dung
vợ tôi đang chống chọi trước một âm mưu buộc nàng phải mất tiết hạnh.
Tôi không sao dứt khỏi đầu óc ý nghĩ ám ảnh ấy, và tự nhiên trở nên buồn
rầu không thể nào tả xiết. Nhà vua các thần linh nhận thấy nỗi buồn lộ trên
vẻ mặt tôi, liền hỏi:
- “Ngài giáo chủ, ngài có việc gì không vui? Từ nhiều ngày nay, ta
nhìn thấy đôi mắt ngài đầy vẻ u sầu. Phải chăng ngài buồn chán phải ở lâu
chốn này?”
- “Tâu đức vua vĩ đại,” tôi đáp, “tôi chịu ân huệ quá sâu của ngài. Tôi
quá quý tình thân hữu các vị hảo thần tín đồ Hồi giáo dành cho tôi. Tôi
không đến nỗi bất nghĩa để xin từ biệt ngài cùng các vị thần linh ấy. Nhưng
tôi không dám giấu giếm ngài một nguyên nhân khác khiến cho cuộc sống
của tôi không được bình yên.”
Tôi thuật lại nhà vua nghe giấc mơ, và thú thật đấy là nguyên nhân đích
thực khiến tôi luôn ưu phiền. Nhà vua đáp:
- “Ta làm sao nỡ chê trách ngài về việc ngài có được một phu nhân
ngài hằng quý yêu, hằng tưởng nhớ, hằng ước mong gần gũi. Ngài có biết
từ đây về thành phố Basra quê hương của ngài mất bao nhiêu thời gian đi
đường không? Chín mươi năm trời ròng rã, xin ngài hiểu cho. Nhưng
Thượng đế đã cho phép chúng ta đủ phép thần thông coi những xứ sở xa
xôi nhất cũng trở nên gần gũi. Bởi vậy, cho dù vô cùng xa ngái, ta sẽ giao
cho một thần linh nhiệm vụ đưa ngài trở về thành phố sinh quán của ngài,
và rồi ngài sẽ được nhìn thấy tận mắt trên thực tế nàng Canzat ngài đã nhìn
thấy trong giấc mơ.”
Nói xong, nhà vua cầm tay dắt tôi đến bên bờ một biển, nước biển màu đỏ
rực, chỉ cho tôi nhìn thấy một hòn đảo ngoài khơi, và hỏi: