nhanh, ngày một ngày hai đã trở thành cây cao, thân xoè ra bốn mươi
cành. Cành cây quay tròn, càng quay càng mở rộng thêm vùng đất
cứng, phân đất thành xóm, thành mường.
Cành càng quay, cây càng cao, chẳng bao lâu tán đã che kín cả một
phương trời, bóng râm toả xuống một phần đất. Ngồi dưới gốc si,
thiếu ánh nắng, mụ Lắp Nhắp Lẻ Nhẻ bực mình. Vốn xấu tính,
mụ kêu đất gọi trời, ước sao cho cây đổ. Trời bèn mưa, nước thối và
sâu xuống. Nước thối ngấm vào thân cây, sâu khoét ruỗng lõi cây.
Một trận gió nổi lên. Lá cây rụng tơi tả, thành chim. Gốc si trốc rễ,
thành cá. Cây si đổ. Từ lòng cây bay ra đôi chim to: Chim Ân Cái Ứa.
Chưa có nơi ăn chốn ở, đôi chim khóc lóc thảm thiết. Bà Rậm Bà
Rủ, một người già tốt bụng, mách chúng lên cành đa mà ở. Lâu ngày,
chim mái có mang. Bà dạy cho cách làm tổ. Chim mái đẻ ra nhiều
trứng. Trứng rơi xuống đất, bị rùa ăn sạch. Nghe lời bà, đôi chim mổ
vào sườn núi đá, khoét nên hang Hao làm nơi ở mới. Chim mái lại đẻ
ra nhiều trứng, trứng đủ hình đủ dạng, có quả dài, có quả tròn, quả có
vằn, quả màu đỏ… Cuối cùng, chim mái lại sinh ra trứng vuông góc,
Bà Rậm Bà Rủ còn dạy cho Chim Ân Cái Ứa ấp trứng. Trứng nở, quả
bầu dục thành con giải, quả dài thành con rắn, quả vằn thành con
rết, quả đen thành con quạ, quả đỏ thành con hươu, con nai…, chỉ
còn trứng vuông mãi không chịu nở. Đúng chín tháng mười ngày, quả
trứng nứt ra sau một tiếng nổ. Từ đống vỏ lần lượt đứng lên ba con
người, thoạt tiên là ông Cài, tiếp đến là ông Cần, sau nữa là nàng
Kịt. Sau ba anh em còn có bao nhiêu người khác. Đám đông nhốn
nháo kéo ra khỏi hang, người nói tiếng Mường, kẻ nói tiếng Kinh,
tiếng Thái…
Loài người đã ra đời. Nhưng họ sống còn hỗn tạp, lúc nhúc dưới
gốc cây to trên cỏ rậm, suốt ngày chỉ những tranh nhau miếng ăn.
Cần phải có người đứng lên cầm quyền, thu xếp cho ổn cuộc
sống, cho yên mường xóm. Họ bèn đến hang Hao, mời ông Cài ra trị