giáp. Con nào con ấy thở phì phì, bọt sùi trắng hai bên mép. Chúng
đông lắm, dễ đến mấy nghìn tên. Chúng đã kéo vào quèn, kín đặc.
Núi rừng vắng lặng. Chỉ có tiếng ngựa hí từng chập ầm ầm.
Thành đá âm vang, dội lại. Rồi im ắng. Cảnh tượng đó thốt làm cho
viên tướng trẻ dẫn đầu rờn rợn. Y ghìm cương, chờ toán kị binh cận vệ
trương lá cờ suý đề chữ ngoằn ngoèo “U Ri Ăng Kha Đai” hộ tống
chủ tướng đi tới:
- Bẩm tướng quân, địa thế đây xem chừng hiểm trở. Mạt tướng cảm
thấy có điều gì khác thường, e có phục binh của quân Việt. Xin tướng
quân định liệu.
Viên chủ tướng cả cười:
- A Truật, con đã theo ta đánh dư chục trận sao còn nhút nhát như
con nít! Mới hơn chục ngày trước, quân ta đã qua đây. Chúng như thỏ
rừng cúp tai chạy hết. Có tên nào dám ló mặt ra không?
Tướng tiên phong A Truật, con trai của viên tướng chỉ huy đạo quân
ấy cố gắng:
- Bẩm tướng quân, khi đó ta đang có ba vạn quân hùng, tướng mạnh
trong tay, thế ta như nước vỡ bờ; quân Việt có thể tạm tránh cơn nước
sôi lửa nóng. Chứ bây giờ, quân ta tan tác, chỉ còn năm ba ngàn quân
dưới cờ. Biết đâu, quân Việt chẳng nhân lúc này kéo ra chặn đường
đánh úp. Xin tướng quân xem lại.
Bị chạm nọc, viên tướng chỉ huy nổi nóng:
- A Truật không được nói càn! Ta đã có lệnh: Ngươi cứ hướng này
mà dẫn quân đi trước mở đường. Chớ có dài lời!
A Truật sợ hãi, không dám nói thêm, vội thúc ngựa phi lên phía
trước. Toán kị binh tiên phong nối đuôi nhau ra khỏi quèn, tiến vào