cũng phải có nhiêu người “nói không” với ân hận. Bỏ qua trường hợp nói
dối (mặc dù không ít), những người vô ân hận đó phải có cơ sở.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, “Ân hận” có nghĩa là
“Băn khoăn, day dứt và tự trách mình trước việc không hay đã để xảy ra”.
Hẳn những người sẵn sàng thông báo “không ân hận điều gì” cũng sẽ sẵn
sàng thừa nhận có nhiều việc không hay từng xảy ra với mình: việc chủ yếu
do hành động của mình, hành động chủ yếu do quyết định của mình. Nhưng
họ không tự trách mình.
Có khi việc “không hay” đó một phần dẫn đến việc “quá hay” - dù tài
năng đến mấy nhưng một ca sĩ chưa biết nỗi đau lớn sẽ luôn là ca sĩ bình
thường - và họ cảm thấy hài lòng với kết quả chung. Có khi họ còn tự hào
về những việc không hay đó, thay vì tự trách mình, họ tự bắt tay mình. Có
khi họ không có thời gian tự trách mình, đang tập trung hết mình vào phía
trước. Có khi nhiều thứ lắm, thế nhưng điều muốn nói ở đây là họ rất khác
tôi.
Tôi ân hận nhiều thứ. Tôi băn khoăn lắm, day dứt quá, nếu được sống lại
sẽ làm nhiều thứ rất khác! Từ lúc có ý thức về bản thân, tôi đã làm quá
nhiều người thất vọng, làm hỏng quá nhiều việc lẽ ra có kết thúc tốt đẹp.
Thành công tôi cũng có. Nhưng nếu thất bại đúng là mẹ thành công thì tôi
sẵn sàng đá vài đứa khỏi nhà để không còn phải sống cùng với bà mẹ chúng
nó.
Có lẽ vì thế nên tôi sợ người “không ân hận gì”. Bởi tôi không hiểu họ.
Cảm giác ân hận là một phần của tôi; tôi chấp nhận sống cùng với nó cho
đến khi không còn tôi và không còn nó. Tôi chán nó. Tôi biết nó đang ảnh
hưởng không tốt tới cuộc sống hiện tại. Tôi cười mỉm khi bạn bè đặt câu hỏi
về quan hệ giữa tôi và nó. Nhưng tôi vẫn về ngủ với nó. Vì thế, vì tôi không
thể tỉnh táo mà bỏ, nên tôi nhìn những người đã bỏ rồi như là con nghiện
đang phê ma túy. Và tôi sợ.