Điều này rất có ích: lông và phân là bằng chứng thuộc loại tốt và nếu họ
tìm thấy dấu vết tương tự nơi nghi can, ở một địa điểm cụ thể hay trong một
chiếc xe, sẽ có thể giả định khá chắc chắn rằng gã là, hoặc có tiếp xúc với
Gã phù thủy.
Báo cáo vân tay trên những mảnh gương vỡ trong ngõ đã tới từ hệ thống
AFIS. Không khớp với ai cả và cũng không ai bất ngờ gì.
“Còn gì nữa ở hiện trường?” Rhyme hỏi.
“Hết,” Sachs nói. “Chỉ có thế thôi.”
Rhyme đang nhìn qua biểu đồ bằng chứng thì chuông cửa reo và Thom ra
mở cửa. Một lát sau anh trở lại, đi cùng là một cảnh sát mặc đồng phục. Anh
ta đứng rụt rè ở cửa vào, như nhiều cảnh sát trẻ vẫn làm khi họ bước vào
hang ổ của Lincoln Rhyme trong truyền thuyết. “Tôi muốn tìm thanh tra
Bell. Tôi được báo là ông ấy ở đây.”
“Là tôi đây,” Bell nói.
“Báo cáo hiện trường tội phạm. Từ vụ đột nhập ở văn phòng của Charles
Grady.”
“Cảm ơn, con trai.” Viên thanh tra nhận lấy phong bì và gật đầu với chàng
trai trẻ, người sau một cái liếc nhanh đầy sợ hãi về phía Lincoln Rhyme đã
quay lưng và rời đi.
Đọc xong nội dung, Bell nhún vai. “Không phải chuyên môn của tôi. Này,
Lincoln, anh có thể xem qua cái này được không?”
“Chắc chắn rồi, Roland,” Rhyme nói. “Gỡ kim bấm ra và để nó lên cái
khung lật trang ở kia. Thom sẽ làm chuyện đó. Câu chuyện là gì? Đây là vụ
Andrew Constable đúng không?”
“Đúng.” Anh kể với Rhyme về vụ đột nhập vào văn phòng của Charles
Grady. Khi người trợ lý gắn báo cáo lên xong, Rhyme đẩy xe lại chỗ đọc.
Anh đọc trang đầu tiên cẩn thận. Rồi nói, “Lệnh, lật trang.” Anh tiếp tục
đọc.
Vụ đột nhập được thực hiện theo cách đơn giản là đập vỡ một góc cửa
kính ở cửa dẫn vào hành lang và mở then từ bên trong (cánh cửa giữa phòng
thư ký bên ngoài và phòng công tố viên bên trong được khóa hai lần và làm
bằng gỗ dày; nó đã đánh bại kẻ đột nhập).