người một bà già cao tuổi.”
Kiểm tra đôi giày, Mel Cooper nói, “Chúng ta có một số dấu vết tốt ở vết
hằn phía trước gót giày và giữa mũi giày với phần giữa.” Anh mở chiếc túi
ra và cạo lấy thứ đấy. “Rất nhiều đấy,” tay kỹ thuật viên lơ đễnh nói và
nghiêng người trên đám đất.
Khó có thể nói chỗ đất đó là rất nhiều, nhưng cho mục đích pháp y thì số
đất nhỏ bé ấy tương đương cả một ngọn núi và có thể tiết lộ rất nhiều thông
tin. “Xem kỹ nó đi, Mel,” Rhyme ra lệnh. “Hãy xem chúng ta có gì.”
Thiết bị chủ lực trong một phòng thí nghiệm pháp y là kính hiển vi và
mặc dù đã có rất nhiều điều chỉnh theo thời gian, thiết bị này vẫn không
khác là bao về lý thuyết so với chiếc kính hiển vi mạ đồng mà Antonie van
Leeuwenhoek
phát minh ở Hà Lan những năm 1600.
Antonie van Leeuwenhoek (1632 – 1723), doanh nhân và nhà khoa học
người Hà Lan. Ông được coi là cha đẻ của ngành vi sinh vật học.
Ngoài một kính hiển vi điện tử cổ lỗ sĩ mà anh hiếm khi cần tới, Rhyme
còn có hai kính hiển vi khác đặt trong phòng thí nghiệm tại nhà. Một cái là
kính kép hiệu Leitz Orthoplan, mẫu cũ hơn, nhưng là cái anh dùng nhiều
nhất.
Cái thứ hai – mà Cooper sắp sửa dùng – là một kính hiển vi soi nổi, là cái
tay kỹ thuật viên đã sử dụng để xem các sợi ở hiện trường thứ nhất. Các
thiết bị này có độ phóng đại tương đối thấp và thường được sử dụng để xem
các vật thể ba chiều như côn trùng hay chất liệu từ cây cỏ.
Hình ảnh hiện lên trên màn hình máy tính cho Rhyme và những người
khác cùng thấy.
Các sinh viên tội phạm học năm nhất luôn thích chọn kính hiển vi mạnh
nhất để xem xét bằng chứng. Nhưng trên thực tế, độ phóng đại tốt nhất cho
các mục đích liên quan tới pháp y thường khá thấp. Cooper bắt đầu ở độ
phóng đại 4x rồi tiến lên thành 30x.
“A, tập trung nào, tập trung nào,” Rhyme gọi.
Cooper chỉnh lại tỉ lệ vật kính để hình ảnh chất liệu đó rõ ràng đến mức
hoàn hảo.
“Rồi, hãy xem qua nào,” Rhyme nói.