Tôi nói “tổn thương”. Ý tôi là “ám ảnh”. Anh ta vẫn còn ám tôi.
“Tất cả những trợ lý trẻ đều chịu ảnh hưởng của người thầy,” Loesser nói
với nhóm qua loa. “Nhưng người trị liệu tâm lý cho tôi nói rằng trong
trường hợp của Weir, chúng tôi bị anh ta thôi miên.”
Vậy là cả hai người họ đều đi trị liệu.
“Anh ta nói rằng việc ở cùng Weir tạo ra một mối quan hệ theo kiểu hội
chứng Stockholm. Anh biết điều đó không?”
Rhyme nói anh biết – đó là khi con tin hình thành mối quan hệ gần gũi,
thậm chí thấy quý mến và yêu thương kẻ bắt cóc.
“Lần cuối anh gặp anh ta là khi nào?” Sachs hỏi. Bài tập đánh giá đã kết
thúc, hôm nay cô mặc quần áo thoải mái – quần bò và một chiếc áo len màu
xanh lá cây.
“Trong bệnh viện, ở khoa bỏng. Vào khoảng ba năm trước. Lúc đầu tôi tới
thăm anh ta khá thường xuyên, tất cả những gì anh ta nói là phải tính sổ với
bất kỳ kẻ nào làm tổn thương anh ta hay không đồng ý với kiểu ảo thuật của
anh ta. Rồi anh ta biến mất và tôi không bao giờ gặp lại anh ta nữa.”
Nhưng rồi, người học việc cũ giải thích, Weir bỗng nhiên gọi lại khoảng
hai tháng trước. Cùng một thời điểm, Rhyme nhớ lại lời của người trợ thủ
kia. Vợ của Loesser là người nhận cuộc gọi đó. “Anh ta không để lại số và
nói sẽ gọi lại nhưng không bao giờ gọi. Cảm ơn Chúa. Thực lòng, tôi không
biết mình có thể xử lý nổi cuộc gọi đấy không.”
“Anh có biết anh ta ở đâu khi gọi tới không?”
“Không. Tôi đã hỏi Kathy – tôi sợ là anh ta đã trở lại thành phố – nhưng
cô ấy nói anh ta không cho biết mình ở đâu và cuộc gọi là từ một số ‘ngoài
vùng’.”
“Anh ta không nói với vợ anh là anh ta gọi tới vì việc gì à? Anh có đầu
mối nào để biết anh ta ở đâu không?”
“Cô ấy nói anh ta nghe có vẻ kỳ lạ, bực dọc. Anh ta thầm thì, khó mà
nghe được. Tôi nhớ điều đó bắt đầu từ sau trận hỏa hoạn. Phổi anh ta bị
thương tổn. Khiến anh ta còn đáng sợ hơn.”
Tôi biết, Rhyme nghĩ.