Bảy Trân cười thầm “Cha này bị bỏ bùa mê thuốc lú của bọn phát xít. Làm
sao giải bùa cho nó đây?”.
- Người ta đồn như vậy chứ chưa chắc có chuyện Nhật đưa Cường Để về.
Mà dù Nhật có tính như vậy thì Cường Để cũng chưa chắc chịu về, bởi ai
biết bài thơ xuất dương của ông với hai câu đầu như thế này:
“Vì nước cho nên phải xuất dương,
Há mang đồ bá với tranh vương…”
Giáo hữu Non không để Bảy Trân đọc hết bài:
- Cờ đến tay ai nấy phất. Hồi ra đi ổng nói như vậy, nhưng bây giờ thời thế
đã đổi khác. Dù có ổng hay không có ổng, anh cũng phải ra gánh vác
chuyện nước chuyện non. Tôi rất tín nhiệm anh nên lặn lội tới đây tìm anh.
Anh mà từ chối thì tôi giận lắm đó.
Bảy Trân gọi vợ làm vịt, mua rượu đãi khách. Nhưng Giáo hữu Non hầm
hầm đội mưa ra về khi thấy thái độ lạnh nhạt của Bảy Trân trước đề nghị
đầy nhiệt tình nóng bỏng của y. Bảy Trân cũng giầm mưa chạy theo năn nỉ
nhưng Giáo hữu Non bỏ đi một nước.
Bảy Trân trình bày mọi việc và đề nghị anh em nên dời đi một thời gian để
xem phản ứng của Giáo hữu Non như thế nào.
Sáu Giàu vỗ vai Bảy Trân:
- Vậy là địch và ta đang chạy đua nước rút trong giai đoạn này. Mình đã đi
trước chúng một bước, phải giữ khoảng cách đó, đừng cho nó bắt kịp. Ở xa
Trung ương là một thất lợi lớn. Nhưng đó cũng là một điều kiện bắt buộc
chúng ta phải vận dụng tất cả trí thông minh và tinh thần sáng tạo để “điều,
nghiên, phân, tổng” nắm cho được tình hình, thấy cho hết khó khăn để có
đường lối thích ứng với tình thế.
Văn phòng Xứ ủy có một máy thu thanh, mỗi ngày Sáu Giàu đều theo dõi
tin tức thế giới và trong nước. Nhờ vậy anh biết rõ Đồng minh đang phản
công ở khắp các mặt trận. Anh có thể kể vanh vách chiến sự tại châu Ââu,
châu Phi và Đông Nam Á. Chiến trường anh chú ý nhất là Thái Bình
Dương, tướng A-tuya (mac Arthur) chiếm được đảo Ma-ri-an (Mariannes)
và từ đó cho không quân oanh tạc Đông Kinh nhiều lần trong ba tháng đầu
năm 1945. Mỹ chiếm đảo Lu xông (Lucon) rồi chiếm Maní (Manille) ngày