nhưng hắn đã đưa Sáu Đối vô nắm phó tư lệnh. Sáu Đối là “em út” của Bảy
Viễn, vốn là dân anh chị ở Khánh Hội. Nhưng nhân vật nắm chức chánh ủy
là người hoàn toàn mới đối với Hai Vĩnh; Nguyễn Đức Huy lấy tên Hai Đại
vì người to lớn, khoảng trên thước bảy, ký tên chữ “Đại” như người ta viết
chữ nho, tức một gạch ngang và một chữ nhân. Đặc điểm của Hai Đại là bộ
râu mép rất dày, tỉa xén cẩn thận, do đó có thêm biệt hiệu “ông già râu
kẽm”. Hai Vĩnh không nắm được lai lịch của Hai Đại, chỉ nghe nói “đây là
người thân tín của chính ủy khu 7- tức Hai Trí- đưa tới để nắm Bình
Xuyên”. Không biết lai lịch, Hai Vĩnh và các đồng chí căn cứ vào hành
động mà đánh giá chánh ủy của mình. Với tướng mạo và nhất là với bộ râu,
cộng thêm chức chánh ủy, Hai Đại đã có một vài sáng kiến nhằm cải thiện
đời sống binh sĩ. Sáng kiến thứ nhất là các đơn vị phải tự túc, nói theo danh
từ lúc đó là “tự lực cánh sinh”. Rừng Sác có nhiều cá tôm, cây củi, chỉ cần
quyết tâm là có ăn. Riêng anh em ở văn phòng phải trồng rau muống, rau
dền, cải xanh, bầu bí để có chất tươi rất cần cho cuộc sống trong rừng.
Chính Hai Đại nêu gương lao động buổi sáng cho mọi người. Ông thức dậy
sớm, tập thể dục chừng chục phút rồi cuốc đất lên lếp trồng rau muống.
Ông có kinh nghiệm, trồng rau cải phân tán để máy bay trinh sát địch
không phát hiện mà bỏ bom hoặc nhảy dù xuống “chụp” cơ quan. Sáng
kiến thứ hai của Hai Đại là quyết tâm trị cho được chứng ghẻ lở của binh sĩ.
Ông nhờ đồng bào trong khu chở than củi tự túc ra thành bán rồi mua vải
xiêm và xà bông cho anh em tắm giặt. Đã là binh sĩ Bình Xuyên, không ai
quên được cảnh ghẻ lở xuống sông tắm nước mặn, rát không chịu nổi, lại
thêm nạn cá chốt theo rỉa các mụn ghẻ, đau thấu xương.
Nhờ hai sáng kiến trên mà Hai Đại tức “ông già râu kẽm” rất có uy tín,
không những với binh sĩ Bình Xuyên mà còn với các đơn vị khác đóng
trong vùng.
***
Từ ngày theo Chi đội 7 về núi Nứa, cô Tư Xóm Cỏ vẫn tiếp tục làm nội trợ
trông nom nhà cửa, chồng con. Trước ngày Hai Vĩnh đi Đồng Tháp Mười,