già râu kẽm “quan cách mạng” hàng ngày đang dòm ngó anh. Lão lăm le
cây viết hai đầu “sinh, tử” trên tập giấy bìa đen. Chỉ lộn đầu bút là tiêu một
mạng người.
Mười Lực cố tìm một lý do để ra đi. Cố tìm thì cũng có. Vợ anh mới vừa
chết trước đó, việc ma chay không đúng theo ý anh: Không có ván đóng
hòm, dàn kèn của Chi đội bận rộn chuẩn bị về Quân khu, không giúp đưa
linh người quá cố. Còn đứa con vắng mẹ, làm sao đây? Không lẽ ôm con
đánh giặc? Thế là Mười Lực đã tìm được lý do: Về thành gửi con mồ côi
cho bà ngoại. Lý do không vững lắm nhưng cũng tạm giúp người ra đi yên
tâm.
Riêng Bảy Môn thì việc đi hay ở không gây ray rứt nhiều như Mười Lực.
Anh tin nơi số mạng mình bao giờ cũng được một chữ nhàn. Hồi làm ở
hãng đóng tàu Caric ở Thủ Thiêm, anh sống khỏe hơn các bạn đồng nghiệp,
có thì giờ rảnh đọc báo “Lao động” của hai tay cách mạng Nguyễn Văn
Tạo và Nguyễn Văn Nguyễn. Nhờ vậy mà sớm có ý thức chính trị. Đi
kháng chiến lúc nào cũng có Mười Lực bên cạnh. Mười Lực nắm Chi đội
thì Bảy Môn nắm đại đội. Bởi sự gắn bó khắn khít đó mà khi Mười Lực
quyết định về thành thì Bảy Môn cũng gật theo:
Miệt Ba Giồng coi vậy mà rất gần thành phố Sài Gòn. Chỉ một con nước là
tới Phú Xuân Nhà Bè. Ghe Bảy Môn đi trót lọt, nhưng ghe Mười Lực thì
gặp bọn “mặt gạch” (Malgache) chặn bắt dọc đường. Anh khai con đau đưa
về thành hốt thuốc. Anh bồng đưa thằng nhỏ vừa qua “thôi nôi” mấy tuần
cho bọn lính xem nhưng vô hiệu.
Bọn lính được lệnh bắt tất cả những người trong Rừng Sác đi về thành.
Mười Lực được giải về bộ chỉ huy. Túng thế anh phải khai thật và xin được
liên lạc với Ngài Bảy Viễn càng sớm càng tốt. Thế mới biết định mệnh lá
lay và số phận con người như chiếc lá giữa dòng. Mười Lực định “rửa tay
gói kiếm” về nhà ở ẩn, nhưng dòng đời lại đưa đẩy về phái Bảy Viễn thêm
lần nữa.
Cũng đêm ấy, còn có một người bí mật rút về thành. Người đó là Tư
Huỳnh. Sau khi thuyết phục được Mười Lực và Bảy Môn theo yêu cầu của
Bảy Viễn, Tư Huỳnh cũng “lui ghe”. Nhưng anh không ngờ tên “trạo” của