anh chính là người của “ông già râu kẽm”. Thế nên thuyền anh cứ loay
hoay mắc cạn từ khuya đến sáng để trạm kiếm soát ở các ngã ra vô thành
tóm bắt giải về bộ chỉ huy.
Một tòa án quân sự đặc biệt được lập ra. Trên ghé xét xử có Năm Hà,
Nguyễn Đức Huy. Trước vành móng ngựa có Tư Huỳnh và một đồng lõa:
Ba Bay tức Huỳnh Văn Nên.
Theo lời khai của Tư Huỳnh thì Ba Bay biết hết tất cả nội vụ nhưng không
hiểu vì lý do gì mà Ba Bay không khai báo.
Trước tòa, Ba Bay bình tĩnh khai:
- Đúng là tôi biết nội vụ nhờ một sự tình cờ. Đi qua nhà Tư Huỳnh đúng
vào đêm ba người ăn nhậu và tâm sự với nhau, tôi biết ba người sẽ về thành
nhưng không khai báo. Tại sao? Tôi nghĩ rằng ba người này đều là cấp bộ
chỉ huy, ăn học nhiều hơn tôi, họ có lý do nào đó để hành động mà tôi
không biết được. Tôi là tay giết người, đã cho đi “mò tôm” mấy chục tên
Việt gian nhưng tôi kỵ nhất là cái nghề mật báo. Nó đê hèn đốn mạt, không
xứng đáng với người quân tử. Tôi thà lãnh án tử hình hơn đi khai báo ba vị
đàn anh mà tôi mến mộ.
Vì thái độ “quân tử Tàu” đó, Ba Bay lãnh án hai năm tù. Phải nói đây là
bản án hết sức nhẹ bởi chánh án Năm Hà lại chính là “đại ca” của Ba Bay.
Và thiêng liêng hơn nữa là hai người đã thề nguyền đồng sinh đồng tử nơi
đình thần Tam Thôn Hiệp bên bờ sống Lòng Tàu…
Tội của Tư Huỳnh nặng hơn. Lãnh công tác địch vận, làm không xong lại
trở vô khu kêu gọi hai cán bộ cấp tiểu đoàn và trung đoàn nhảy ra đầu Tây.
Bản án tử hình đã thấy trước mắt, khi công tố viên Nguyễn Đức Huy vểnh
râu kẽm ra buộc tội. Tư Huỳnh lạnh lùng nói:
- Tội tôi làm, tôi xin chịu. cho tôi xin tự xử…
Nguyễn Đức Huy lắc đầu:
- Không được! Đã có đội hành quyết.
Tư Huỳnh lớn tiếng:
- Các anh biết rõ Tư Huỳnh quá mà! Khi lâm trận, Tư Huỳnh đứng thẳng
lưng chỉ huy. Tư Huỳnh không bao giờ tránh đạn mà trái lại, đạn né Tư
Huỳnh. Bây giờ trước khi chết, Tư Huỳnh xin anh Năm cho một đặc ân