mọi dụng cụ đồ lề của mình sang một bên. Họ không chịu thua bọn thợ săn
trong các câu chuyện về những chiến công vĩ đại, mà đây là điểm mạnh của
cánh săn bắn.
Đến lúc tàn tiệc sáng khá là ngon lành, mà tụ hội quanh những cái bàn là
hàng trăm khách được mời đến – những dũng sĩ của cái cần câu, những
người ủng hộ nhiệt tình con nước, những lẻ si mê cái móc câu. Khỏi phải
nói, những chiến công giờ sáng này đã hong khô cổ họng của họ, cứ theo số
lượng chai đặt ra trong phiên tráng miệng. Sau đó đến lượt hàng lố chai
rượu mùi được quyết định dùng đồ uống thay cho cà phê.
Đồng hồ gõ ba tiếng – khi khách khứa rời bàn. Thật tình mà nói, trong
số họ đã có vài người loạng choạng và họ không thể cất bước nổi nếu
không có tay dìu của bạn bè. Nhưng số đông vẫn còn cứng cựa, như những
vị khách quen mắt dũng mãnh và bướng bỉnh của các phiên họp thần thánh
kéo dài mà hàng năm đều tái diễn vài lần nhân các cuộc thi của “Hội vùng
sông Danube”.
Danh tiếng của những cuộc thi (đã chuyển thành những cuộc chè chén)
này vang dội trên suốt chiều dài con sông trứ danh, không kém gì những
âm điệu luân vũ của Strauss. Tụ hội lại đây là các đấu thủ từ công địa
Bađanh, từ Vuốctemhéc, Bavaria, Áo, Hungary, từ Rumani, Xecbi và thậm
chí từ những tỉnh thuộc Thổ - Bungary và Bexarabia.
Hội đoàn này tồn tại đã năm năm. Dưới sự cai quản của vị chủ tích
Micletxcô, người Hungary, hội đoàn rất phát đạt. Tài lực của Hội tăng tiến
đã cho phép đưa ra những giải thưởng lớn tại các hội thi, và lá cờ của hội
nổi bật lên nhờ vô số những huy chương giành được trong sự đấu tranh bền
bỉ với các hội đoàn những người câu cá khác. Ban chấp hành các giám đốc
của hội, những người rất am hiểu các đạo luật về sự câu cá trên các vùng
sông, đã ủng hộ những người đồng chí khi thì chống lại nhà nước, lúc lại
chống phía tư nhân và bảo vệ các quyền hạn, đặc lợi của họ bằng một sự
kiên trì đáng kể, dám nói rằng, bằng một sự bướng bỉnh hết sức chuyên
nghiệp, vốn là đặc tính của giống hai chân trội hẳn trong giống người đặc
biệt say mê sự đánh bắt cá bằng cần câu.