Bây giờ thì tôi trau chuốt và xén đều nó… Cả mái tóc cũng thế, và
hôm chủ nhật nọ, trước gương, sau khi trút bỏ mảnh vải che thân cuối cũng,
tôi bất chợt, với đôi chút kiêu hãnh, thấy mình có tí chút bụng phệ.
Thầy tôi còn can đảm hơn, và tôi nhớ lại là đã thấy ánh lên mối căn
thù trong con mắt thầy tôi, hồi thầy tôi làm giám học, tuy thầy tôi không
đóng vai người cách mạng, không sống trong thời kỳ bạo động, chưa bao
giờ hô hào cầm vũ khí, không qua trường học khởi nghĩa và đấu gươm.
Giờ-đây tôi đâm ra thế này – và tôi đã tìm thấy ở trường trung học này
sự yên ổn của nơi trú viện, miếng bánh mì của nhà cứu tế, khẩu phần ăn
của nhà thương.
Lúc chặp tối, một cựu chiến bính ở Farâyron đã từng chứng kiến trận
Oaleclô kể với chúng tôi rằng buổi chiều trận đánh ấy, trước khi nó kết
thúc, ông ta đi ngang qua một quán ăn cách hàng quân vài bước, ông ta ngã
gục xuống một chiếc bàn gỗ, quăng súng và không chịu đi xa nữa.
Viên đại tá mắng ông ta là hèn nhát.
- Hèn nhát cũng được! Không còn có Chúa, có Hoàng Đế… Tôi đang
đói khát đây!
Và ông ta tìm cái sống trong tủ ăn của quán hàng, giữa những xác
chết; và, ông ta nói ông ta chưa bao giờ được ăn bữa nào ngon hơn, thịt thì
tuyệt ngon và rượu thì mát lịm. Rồi ông ta nằm dài, đầu gối lên túi dết, ông
ta ngáy theo nhịp tiếng gầm của đại bác.
Đầu óc tôi bây giờ ngủ yên xa cuộc chiến đấu và xa tiếng ồn ào; kỷ
niệm của quá khứ chỉ còn rung lên trong tim tôi, như còn có thể rung bên
tai một tên lính đào ngũ, tiếng trống trận xa dần và tắt lịm.
Là con mồi của phòng trọ, trong bao nhiêu năm bắt buộc phải nhận bất
cứ cái ổ chuột nào làm nhà ở, và chỉ quay về cái ổ đó vào những giờ tối
mịt, vì sợ nỗi mất ngủ, hoặc vì sợ bà chủ trọ; là kẻ trốn khỏi nông thôn cần
nhiều khí trời hơn người khác, nhưng chỉ được hít thở những xú khí ở
những quán trọ đầy nước rác; là kẻ đói khát chưa bao giờ ăn trả tiền ngay,
mà vốn lại háu đói và phàm ăn - ấy chính cái anh chàng đó, một buổi sang