chung thường thất bại. Người máy không thể nuôi cho chúng sống được.
Động vật cần môi trường có hơi ấm để sinh trưởng. Ngoại trừ bò sát và côn
trùng.”
“Sóc thì có cần không? Bầu không khí yêu thương ấy? Bởi vì Buffy vẫn
ổn, béo mượt như một con rái cá. Tôi rửa ráy và chải chuốt cho nó cứ hai
ngày một lần.” Tới một bức tranh sơn dầu, Phil Resch dừng lại, nhìn chăm
chú. Bức tranh vẽ một sinh vật không tóc, bị chèn ép, đầu giống như một
quả lê lộn ngược, hai tay bịt lấy tai trong cơn hoảng loạn, miệng há hốc cất
nên tiếng hét vô thanh . Những đợt sóng vặn xé từ sự giày vò của sinh vật
ấy, âm vang tiếng gào thét của nó, tràn ra tỏa ngập không gian chung
quanh. Người đàn ông hay phụ nữ ấy, dù nó là gì, đã bị bao trong tiếng hét
của mình. Nó đã che tai để bịt lại chính tiếng kêu của mình. Sinh vật ấy
đứng trên cầu và xung quanh không có ai khác. Sinh vật ấy gào thét trong
cô độc, bị cách ly bởi tiếng la hét của nó.
“Ông ta làm một bức tranh khắc gỗ sao chép lại tranh này,” Rick nói, gã
đọc tấm bảng kẹp ở sau bức tranh.
“Tôi nghĩ, người máy hẳn cảm thấy như thế này.” Hắn huơ tay trong
không trung họa lại những đường cuộn xoắn nhìn thấy trong tranh, vẽ ra
tiếng gào thét của sinh vật kia. “Tôi không cảm thấy thế, nên có thể tôi
không phải là…” Hắn ngừng lại, khi một vài người bước lại ngắm bức
tranh.
“Luba Luft kìa.” Rick chỉ tay và Phil Resch ngừng dòng suy nghĩ và biện
hộ tối tăm. Cả hai đều bước đến gần cô ta, thong thả như không có gì cản
trở họ cả. Như mọi khi, điều cốt yếu là phải giữ không khí hết sức bình
thường. Những người khác, vì không biết giữa mình có người máy hiện
diện, nên phải được bảo vệ bằng mọi giá – dù cái giá có là mất đi con mồi.
Cầm một bản in catalogue, Luba Luft trong chiếc quần ống bó sáng bóng
và áo kiểu vest vàng óng ánh, đứng mải mê nhìn bức tranh trước mặt: bức
tranh vẽ một thiếu nữ, tay đan vào nhau, ngồi trên mép giường, một biểu
hiện băn khoăn ngơ ngác và nỗi kinh sợ mới, dò dẫm hằn trên nét mặt.