nữa, và khi những cơn gió có vẻ như đang thổi tung cả rừng cây lên, tôi đi
ngang qua ba nấm mồ. Chúng mới được đào xong, bởi vẫn còn dấu chân
xung quanh, nhưng không thấy có người sống nào gần đó cả.”
Hadley phá vỡ bầu không khí lạ lùng mà giọng nói mơ màng đó bắt đầu
tạo ra.
“Một nơi,” ông nói, “giống như trong bức tranh mà tiến sĩ Grimaud đã
mua của ông Burnaby.”
“Tôi… tôi không biết,” Drayman trả lời, rõ ràng là bị giật mình. “Đúng
thế không? Tôi không để ý.”
“Không để ý? Ông chưa xem bức tranh à?”
“Tôi nhìn không rõ lắm. Chỉ thấy đại khái là có cây, khung cảnh bình
thường…”
“Và ba tấm bia mộ…”
“Tôi không biết Burnaby lấy cảm hứng từ đâu ra,” ông già ngơ ngác nói,
và xoa tay lên trán. “Có Chúa chứng giám tôi chưa bao giờ kể với ông ấy.
Có lẽ là trùng hợp thôi, ba nấm mồ đó không hề có bia. Họ chẳng mất công
làm cái đó. Chỉ có ba cây thập giá đơn giản làm bằng cành cây thôi.
“Nhưng tôi đang kể cho các ông: tôi ngồi trên lưng ngựa và nhìn xuống
ba nấm mồ đó, và không hề có cảm giác dễ chịu. Đúng là ba nấm mồ trông
dễ sợ, với khung cảnh xanh và den xung quanh và những ngọn đồi màu
trắng ỏ xa xa. Nhưng không phải vì thế. Nếu mấy nấm mồ đó là của nhà tù,
tôi tự hỏi vì sao họ lại đào chúng xa đến thế. Điều tiếp theo tôi biết là con
ngựa của tôi lồng lên và suýt nữa hất tôi xuống. Tôi cho nó đi vòng quanh
một cái cây, và khi nhìn lại, thì tôi biết con ngựa gặp vấn đề gì. Ụ đất trên
một nấm mồ đang trồi lên và trượt sang một bên. Có tiếng động răng rắc như
thể có thứ gì đó đang vặn mình và quằn quại, rồi một thứ gì đó màu tối mò
mẫm trồi lên từ ụ đất. Đó chỉ là một bàn tay với các ngón tay vặn vẹo,
nhưng tôi chưa bao giờ thấy thứ gì kinh khủng hơn thế.”