‘Tôi hy vọng anh hiểu rằng đây vẫn là một câu chuyện đau lòng với tôi
và tôi không muốn đi sâu vào chi tiết’, anh ta nói với giọng khá dè dặt.
Chúng tôi nhấp từng ngụm trà trong im lặng; sau đó anh ta chồm người
tới trước và bắt đầu kể.
“Cha tôi, như anh có lẽ đã biết, là một người rất giàu có và là một trụ cột
đáng kính của cộng đồng, danh tiếng vượt qua giới hạn của xứ đạo. Tôi là
con trai duy nhất và là con ngươi trong mắt ông. Không thể có người cha
nào tốt hơn thế, và ông cũng là thần tượng lớn nhất của tôi suốt thời thơ ấu.
Những năm 1930 thật khó khăn, ngay cả ở Oppland, nhưng tôi chưa từng
thấy ai rời nông trại của cha mà tay trắng, cho dù họ có cần bố thí hay
không. Hồi tưởng lại, những năm tháng tuổi thơ đó là giai đoạn hạnh phúc
nhất đời tôi.”
Anh ta đột nhiên nhìn xuống bàn và mím chặt môi một lúc trước khi tiếp
tục.
“Một ngày nọ khi tôi mười hai tuổi, chiến tranh nổ ra. Cha tôi chiến đấu
cho nhà vua và chính phủ từ tháng 4 năm 1940. Ông lập tức giữ một vị trí
lãnh đạo trong phong trào Kháng chiến tại địa phương, sau khi đất nước bị
chiếm đóng. Ngày 12 tháng 1 năm 1941, vào sinh nhật mười ba tuổi của
tôi, chính ngày hôm đó, năm tên lính Đức đã kéo đến bắt ông. Đó là cú sốc
kinh khủng cho tất cả chúng tôi nhưng có lẽ tồi tệ nhất đối với tôi, vốn là
đứa nhỏ nhất và ngưỡng mộ cha mình hơn bất kỳ điều gì trên thế giới này.
Việc này có vẻ lạ lùng, nhưng điều làm tôi nhớ nhất trong vụ bắt giữ đó là
một người lính Đức trẻ tuổi. Anh ta chỉ lớn hơn tôi năm hoặc sáu tuổi và
dường như cũng không thích tình cảnh đó, giống như tôi vậy. Anh ta thì
thầm với tôi rằng mọi việc hy vọng sẽ được thu xếp và cha tôi sẽ sớm về
nhà. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Đó là lần cuối tôi nhìn thấy cha,
khi ông bị đám lính bắt đi. Ông bị bắn chết sau đó một tuần. Tôi mất đi sự
hồn nhiên trẻ thơ và phần lớn niềm tin đối với con người vào ngày quân
Đức bắn cha tôi.”
Andreas Gullestad dừng lại và chìm đắm trong những suy nghĩ của mình.
Sau đó anh ta tiếp tục mạch kể chuyện.