Lúc tôi về đến, nó đã lành lạnh rồi. Đã xuống còn 5 độ C. Run lẩy bẩy và
nhìn thấy hơi thở mình cô đọng trước mặt, tôi trùm thêm vài lớp quần áo.
May sao tôi không to con lắm. Quần áo của Martinez vừa vặn trên lớp quần
áo của tôi, và của Vogel vừa vặn trên lớp quần áo của Martinez. Đám quần
áo rác rưởi này đượng may để mặc trong môi trường có nhiệt độ trung hòa.
Ngay cả khi mặc ba lớp, tôi vẫn thấy lạnh. Tôi leo lên giường tầng của
mình trùm mền cho ấm người hơn.
Khi nhiệt độ xuống còn 1 C, tôi đợi thêm một giờ nữa, chỉ để đám vi
sinh vật trong đất kịp nhật tin nhắn rằng đã đến giờ sống chậm lại rồi đấy.
Trục trặc tiếp theo tôi gặp phải là máy điều hòa. Mặc sự tự tin vênh váo
của mình, tôi chẳng thể nào láu cá hơn nó được. Nó thật sự không muốn hút
quá nhiều O2 khỏi không khí. Mức thấp nhất tôi có thể khiến nó chịu làm là
đến 15%. Sau mức đó thì nó thẳng thừng từ chối chuyện hạ thấp hơn nữa,
và chẳng việc nào tôi làm khiến nó thay đổi ý định. Tôi có cả đống kế
hoạch để xâm nhập và lập trình nó lại. Nhưng quy trình an toàn hóa ra đều
được viết bằng ROM (read-only memory, bộ nhớ chỉ đọc).
Tôi không thể trách nó. Mục đính của nó là phòng ngừa việc không khí
trở nên độc chết người. Chẳng ai ở NASA lại nghĩ “Này, hãy cho phép nó
được thiếu ôxy đến mức tai hại đi để đảm bảo mọi người đều lăn quay ra
chết!”
Cho nên tôi phải dùng một kế hoạch thô sơ hơn.
Loại ống thoát khi khi máy điều hòa dùng để lấy mẫu khí khác với loại
khi dùng để tách khí. Khí được đóng băng – tách biệt đi vào một ống thoát
khí lớn ở bộ máy chính. Nhưng nó lại lấy mẫu khí từ chín ống thoát khí nhỏ
dẫn về bộ máy chính. Bằng cách này nó có thể lấy được mẫu khí trung bình
chuẩn hơn từ khắp căn Hab, và ngăn ngừa một mẩu khí không cân bằng ở
vùng nào đó làm lệch đi kết quả.