Theo tôi ban đầu người Việt sử dụng một câu khẩu quyết mang tính cầu
nguyện để chỉ cho 12 địa chi, tôi nghĩ có lẽ 10 thiên can cũng vậy. Câu đó
là:
Chốt sau dồi mẹ thì đà ngã về chân rào tối hù.
Tý – Sửu – Dần – Mão – Thìn – Tỵ - Ngọ – Mùi – Thân – Dậu – Tuất –
Hợi.
Về sau tên các con vật được đưa vào để cho dễ nhớ mà thôi, việc này dựa
vào tính cận âm của con vật hay của từ mà hình thành. Ví dụ: Chốt cận âm
với Chuột. Mẹ, Mẹo cận âm với Mèo v.v... Việc sử dụng sự đồng âm hay cận
âm của từ để thay thế khái niệm của chữ này bằng chữ khác không phải lạ
trong tiếng Việt như: Lộc = chồi non = Lộc
祿: điều tốt lành = Lộc: Lá non ,
Phúc = Phúc
福: điều may = 蝠 con dơi hay cận âm như 6 Lục = lộc , 8 bát
= phát, cầu, dừa, đủ, xoài = cầu vừa đủ xoài.
Như ta biết, người Việt xưa cũng gọi là người phương Nam, thờ mặt trời,
điều này đã được thể hiện rõ tại trung tâm mặt trống Đồng cũng như trên Hà
đồ. Phương Nam được đặt lên trên để vọng hướng về Tổ tiên, chính vì vậy
trong Tiên Thiên Bát Quái, phương Nam là Trời, Càn, mùa Hạ, vì đã là con
của mặt trời nên mặt trời là mẹ, là nguồn sống của con người, nên người xưa
luôn cầu nguyện mặt trời phù hộ cho mình. Câu khẩu quyết trên là tấm lòng
mong đợi và dõi theo của người Việt hướng về mẹ mặt trời, vị thần che chở
cho họ và họ đã dùng câu cầu nguyện này để biểu thị cho thời gian, từ khi
mặt trời đến, đi, rồi trở lại. Bởi vì khi mặt trời trở lại là lúc họ đi săn, làm
ruộng, nương, đi kiếm các loại thực phẩm, nói chung là sinh hoạt sản xuất.
Câu cầu nguyện này đã được ghi lại bằng chữ Nôm – Chữ Việt cổ. Như đã
nói ở trên, Hà đồ Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt thì dĩ nhiên chữ
Vuông cũng là thành quả của người Việt nhưng về sau người Hoa Hạ với
khả năng thiện chiến, dần chiếm hết trung nguyên, kể cả văn hóa của người
Việt trong đó có chữ Viết rồi đọc theo cách của họ. Chính vì vậy sử sách vẫn
còn ghi chuyện Sĩ Nhiếp cấm không cho dân ta học một loại chữ gì đó mà
phải học chữ Hán. Như vậy trước thời Sĩ Nhiếp ta đã có chữ và người dân đã
học, vậy chữ đó là chữ gì? Đó chính là chữ Nôm – Chữ Việt cổ, chữ ấy