chính là loại chữ ta thấy viết trong 12 địa chi với âm của người Việt. Ví dụ:
子 đọc là Chốt hay Chút. Chính vì vậy mà sau này khi người phương Bắc
buộc ta phải học theo âm mới, người Việt thường gắn thêm âm cũ vào nhằm
mục đích lưu lại, bảo tồn âm cũ của chữ đó như: Tý chút, sư sãi, sợ hãi, tùy
theo, xa cộ, rào dậu (giậu)...
1.
Tý = Chút = Chốt, như Đút = Đốt (lửa). Trong các nghĩa chữ
子 Tý
hay Tử hay Chút = Chốt = Chột có nghĩa là cái mầm. Mầm tuy nhỏ nhưng là
nơi bắt đầu, cánh cửa mở ra một quá trình của sự sống. Từ sau khi Chốt đổi
thành Tý, người Việt xưa sợ mất âm của mình nên đọc ghép vào thành Tý
chút = chốt = Chột = Nhỏ. Vì âm của người Việt là chốt hay chột có nghĩa là
cái mầm hay cái quan trọng nên nó có các từ và nghĩa phái sinh như: Thui
chột = Thúi mầm - Then chốt, Chủ chốt = Quan trọng; đồng thời từ đó âm
Ốt này được ghép với các phụ âm đầu cho ra các từ mà nghĩa của nó chỉ
những cái hay tính chất quan trọng như: Trốt = Cái đầu - Hột (hạt) - Cốt
(xương) - Cột (nhà) - Một = Số đứng đầu - Tốt = Hay, đẹp. Vì chốt hay Chột
là cái mầm nên khi nó mọc ra ta gọi là chồi. Ở đây
子 được người Việt dùng
với âm Chốt có nghĩa là then chốt, giao điểm giữa đóng và mở, giữa âm và
dương như chốt cửa là chỗ giáp giữa đóng và mở, trong và ngoài. Giờ Chốt
là giờ then chốt, giao điểm giữa ngày và đêm, âm và dương hay ta có thể gọi
là giờ bản lề, về sau được hoán vị bởi một con vật đó là con Chuột do tính
cận âm. Chốt - Chột - Chuột. Có một câu hỏi đặt ra là: Âm Chốt và Tý, về
mặt ngữ âm thì hoàn toàn khác nhau, vậy tại sao từ Chốt mà thành Tý? Chữ
Tý hay Chốt có chữ giáp cốt gần giống với chữ Tỵ là rắn, nên khi dùng chữ
Tỵ thay chữ Đà rồi người dùng ngay chữ Tỵ rồi đổi thanh nặng sang sắc
thành Tý, ở đây chỉ đổi âm chứ không đổi chữ và nghĩa (xem so sánh chữ
giáp cốt chữ Tý và Tỵ bên dưới).
- Một số chữ
子 giáp cốt.