NGƯỜI VIỆT - CHỦ NHÂN CỦA KINH DỊCH VÀ CHỮ VUÔNG - Trang 141

Ù à ù ập.

Lại (ngồi) sập xuống đây.

Chi chi chành chành = Nhánh nhánh cành cành.
Chữ Chi

支 vốn xưa kia của người Việt đọc là Nhánh, về sau khi người

phương Bắc chiếm lấy rồi đọc là Chi, người Việt sợ mất âm cũ nên thêm vào
Nhánh để lưu lại âm xưa chứ về mặt ngữ âm nó chẳng có tiêu chí gì để Chi
đi với nhánh cả.

Còn chữ Can

干 vốn đọc là Cành, do về sau phương Bắc không dùng

nghĩa này nữa, có lẽ vì sợ người Việt nhận ra nguồn gốc của nó, nhưng ta có
thể tìm thấy nét nghĩa này trong chữ Can

竿 = Cây sào. Vì sao chữ Can 竿

có nghĩa là cây sào. Nếu như không phải vì chữ can

干 vốn có nghĩa là cành

mà ở đây là cành trúc hay tre

竿 thì dài nên mới có nghĩa cây sào. Cũng

chính vì chữ Can là cành nên khi bị gãy thì ngã nên chữ Ngọ

午 xưa kia

người Việt gọi là Ngã vì vậy mà có từ Ngã ngũ.

Cái đanh thổi lửa.

Cái đanh là cái đinh = Can Đinh

丁. Thổi lửa = Hỏa = Ly = Phương Nam.

Thổi là làm cho bùng lên, sáng lên, phát triển lên, ở đây có nghĩa là chuyển
động hay biến dịch. Điều này cho thấy rằng người làm ra bài đồng dao này
dựa trên Hậu Thiên Bát Quái.

Con ngựa mất cương.

Con ngựa là chi Ngọ

午 thuộc chánh Nam. Mất cương nên nó chạy mãi

không ngừng, hay gọi là biến, biến ở đây tức là Biến Dịch hay đó chính là
cái dụng của Hậu Thiên Bát Quái.

Tam vương, ngũ đế.

Tam vương tức Tam Hoàng: Thiên hoàng – Địa hoàng – Nhân hoàng.

Ngũ Đế tức: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ = 5 hành.

Bát qué đi tìm.

Bát qué tức Càn – Khảm – Cấn – Chấn – Tốn – Li – Khôn – Đoài.

Con chim làm tổ.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.