âm gốc xưa vẫn còn trong tự điển. Cũng chính từ đây mà người ta đã khắc
các con chữ đầu tiên lên xương hươu. Hành động khắc chữ lên xương này
người xưa cũng đã thể hiện bằng một con chữ, theo tôi đó là chữ CỌ
觚 như
trong cọ xát, âm Hán Việt là Cô
觚 nghĩa là cái thẻ tre có viết chữ. Tuy
nhiên khi chiết tự chữ CỘ, ta thấy nó được hình thành bởi hai chữ Giác
角 =
Xương và Trảo
爪 = Móng nhọn. Rõ ràng đây là hành động dùng vật nhọn
khắc hình ảnh con chữ sơ khai lên xương hươu, cái mà bây giờ ta gọi là
Giáp cốt văn, tiền thân của chữ Vuông, vì vậy chữ Cộ còn có một nghĩa khác
là Vuông. Có lẽ về sau người ta sợ lưu vết tích xưa nên đổi thành thẻ tre chứ
bản thân nó chẳng có tiêu chí gì để nó có thể thành thẻ tre cả.
Trong nội tại chữ Quái lại có một kết hợp khác nữa đó là hai chữ Thổ chồng
lên nhau
圭, hay ta có thể hiểu hai Quẻ chồng lên nhau
đó là chữ Khuê
圭, nghĩa của nó là dụng cụ đo lường 64 hạt lúa hay cái cân, cân được 10 hạt
lúa. 64 là số của 8 quẻ đơn kết hợp với nhau làm thành: 8 x 8 = 64, số 10 là
số Trinh của Dịch lí, hạt lúa chính là xác định sản phẩm của cư dân lúa
nước. Điều này khẳng định Dịch học và chữ Vuông là sản phẩm của cư dân
lúa nước hay nói khác hơn là của người Lạc Việt.
Tiến trình biểu í chữ KHUÊ
Theo tôi, chữ Khuê là một chữ được phái sinh từ chữ Quẻ, phân tích ngữ
âm của nó ta thấy điều đó. (Khuê = Kh – uê = K – uê = Q - uê = Quẻ).
Chính vì vậy mà trong chữ Nôm dùng chữ này với âm Quê – Que.