gạch, về cơ bản nó là một đường hầm có khung sườn liên tục - một cái vòng
tròn gồm hai trăm bảy mươi khung parabol có độ cao khác nhau, mỗi cái
cách nhau một thước. Có rất ít cửa sổ, không khí rất khô và vô trùng, được
xử lý rất kỹ càng để bảo vệ các tác phẩm của Gaudí.
“Tôi sẽ gặp cô sau một lát nữa,” Langdon nói. “Trước tiên, tôi phải tìm
buồng vệ sinh của Edmond.”
Ambra bối rối liếc lại phía lối vào. “Edmond luôn dặn tôi sử dụng sảnh
dưới nhà… anh ấy có vẻ bảo vệ phòng tắm riêng của căn hộ này một cách
rất bí ẩn.”
“Hang ổ của một gã độc thân mà - phòng tắm của cậu ấy có thể rất bừa
bãi và cậu ấy thấy ngại.”
Ambra mỉm cười. “Chà, tôi nghĩ nó ở lối kia.” Nàng chỉ về hướng ngược
với thư viện, xuôi theo một đường hầm tối om.
“Cảm ơn. Tôi sẽ trở lại ngay.”
Ambra rời về phía văn phòng của Edmond, còn Langdon đi theo hướng
ngược lại, lần theo hành lang hẹp - một đường hầm mái tò vò bằng gạch
khiến ông nhớ tới một cái hang ngầm dưới đất hay một hầm mộ thời trung
cổ. Kỳ lạ thay, khi ông di chuyển dọc theo đường hầm đá, hai dãy đèn cảm
ứng chuyển động sáng lên dưới chân mỗi vòm parabol, chiếu sáng lối đi cho
ông.
Langdon đi qua khu vực đọc sách rất trang nhã, một không gian tập thể
dục nhỏ và thậm chí một phòng để thức ăn, tất cả đều bố trí rải rác nhiều bàn
trưng bày các bức vẽ, phác thảo kiến trúc và mô hình 3-D các dự án của
Gaudí.
Tuy nhiên, khi đi qua một chiếc bàn trưng bày có đèn sáng với những tác
phẩm sinh học, Langdon dừng sững lại, ngạc nhiên trước phần mẫu vật -
một hóa thạch cá thời tiền sử, một cái vỏ ốc anh vũ rất đẹp và một bộ xương
rắn uốn khúc. Mất một lúc, Langdon mường tượng Edmond hẳn đích thân
bày biện phần trưng bày khoa học này - có lẽ liên quan đến những nghiên
cứu của anh về cội nguồn của sự sống. Sau đó, Langdon nhìn thấy lời chú
thích đặt trên hộp và nhận ra rằng những mẫu vật này thuộc về Gaudí và