mình. “Hóa ra sự sống là một công cụ hiệu quả khác thường để tản bớt năng
lượng.”
England vẽ một hình ảnh mặt trời tỏa năng lượng xuống một cái cây.
“Một cái cây, xin lấy ví dụ, hấp thụ năng lượng mạnh của mặt trời, dùng
nó để sinh trưởng và sau đó phát ra ánh sáng hồng ngoại - một dạng năng
lượng đã bớt tập trung hơn rất nhiều. Quang hợp là một cơ chế entropy rất
hiệu quả. Năng lượng tập trung của mặt trời bị cái cây phân tán và làm yếu
đi, tạo ra sự gia tăng tổng thể về entropy của vũ trụ. Có thể nói điều tương tự
cho mọi cơ thể sống - bao gồm cả con người - những gì tiêu thụ thứ vật chất
có tổ chức như thức ăn, chuyển hóa nó thành năng lượng, và sau đó tản năng
lượng trở lại vũ trụ dưới dạng nhiệt lượng. Nói chung,” England kết luận,
“tôi tin sự sống không chỉ tuân thủ các quy luật vật lý, mà sự sống còn bắt
đầu do những quy luật ấy.”
Langdon cảm nhận được một cơn rùng mình khi ông suy ngẫm về cái lô-
gic, dường như khá dễ hiểu: Nếu ánh nắng chói chang chạm tới một mảng
đất màu mỡ, thì các quy luật vật lý của Trái Đất sẽ tạo ra một cái cây để giúp
tản bớt thứ năng lượng đó. Nếu các mạch lưu huỳnh sâu thẳm của đại dương
tạo ra những vùng nước sôi, thì sự sống sẽ hiện ra ở những vị trí đó và phân
tán năng lượng.
“Hy vọng của tôi,” England nói thêm, “là một ngày nào đó chúng ta sẽ
tìm ra cách chứng minh rằng sự sống thực tế tự xuất hiện từ những vật chất
vô tri giác… một kết quả của hư không hơn là các quy luật vật lý.”
Tuyệt vời, Langdon ngẫm nghĩ. Một giả thuyết khoa học rõ ràng về cách
sự sống tự tạo ra… không cần bàn tay của Chúa.
“Tôi là một người sùng đạo,” England nói, “nhưng tín điều của tôi, giống
như khoa học của tôi, luôn là một thứ tiến bộ. Tôi coi giả thuyết này là bất
khả tri về các câu hỏi duy linh. Tôi đơn giản là đang cố mô tả cách mọi thứ
‘có mặt’ trong vũ trụ; tôi sẽ dành những hàm ẩn tinh thần cho giới giáo sĩ và
các triết gia.”
Một người trẻ tuổi khôn ngoan, Langdon nghĩ thầm. Nếu có lúc nào đó
giả thuyết của cậu ấy được chứng minh thì nó sẽ tạo hiệu ứng gây xôn xao