Loại nhà đó, người Chàm gọi là Thang giơ. Danh từ Thang giơ do tiếng
Mã Lai Nam Dương Tanga mà ra và có nghĩa là cái Thang. Dân Việt Nam
cũng nói tiếng Mã Lai Nam Dương và biến như sau:
Tanga = Thang
Nhà Tanga = Nhà sàn
Người Chàm ngày nay không còn cất nhà như vậy nữa, nhưng khi nào cử
hành một lễ tôn giáo là họ cất sơ sịa một cái nhà như thế để hành lễ trong đó,
cho đúng cổ tục Mã Lai.
Đó là kiến trúc Cổ Mã Lai, Kim Mã Lai đã hết cho mái nhà xuống tới sàn
và nhờ vậy mà trổ cửa ở dưới mái được, thôi trổ cửa ở bức hồi, nhưng còn
giữ lối kiến trúc chữ Đinh, đặc thù của kiến trúc của họ mà Tàu tuyệt đối
không biết.
Người Tàu cất nhà luôn luôn có chái, từ cổ chí kim đều như vậy. Tường
hồi là do họ bắt chước kiến trúc của Mã Lai vào đời Đường, chớ trước kia thì
họ không có, còn các nhóm Mã Lai thì bắt chước cái chái của Tàu, tùy theo
thời điểm họ chịu ảnh hưởng Tàu.
Tóm lại tường hồi và lối trổ cửa ở tường hồi, với lại lối nhà chữ Đinh với
cây cột giữa là đặc thù của kiến trúc Mã Lai mà cho đến đời Đường thì Tàu
mới theo, mà cũng chỉ theo tường hồi mà thôi, còn lối chữ Đinh thì họ không
bao giờ theo cả. Nhưng Việt Nam thì luôn luôn dùng lối chữ Đinh.
Chỉ có một điểm nầy mà ông V. Goloubew để cho ta đoán mà thôi vì ông
không có bằng chứng, là đỉnh nóc nhà của tất cả mọi nhóm dân Mã Lai đều
oằn, riêng nhóm Nhựt thì mô, còn nếp nhà ở Đông Sơn thì không thể biết là
oằn hay mô bởi cây đòn dông (thượng đống) không còn nữa. Nhưng bằng
vào hình nhà cửa khắc ở trống đồng thau thì đỉnh nóc nhà Đông Sơn phải
oằn.